Thiền giúp giảm triệu chứng mãn kinh.

Liệu pháp bổ sung

Hormon sinh học: Đây là những bản sao chính xác của progesterone, testosterone, dehydroepiandrosterone, oestradiol, oestriol và oestrone, được tổng hợp bởi buồng trứng và tuyến thượng thận của con người.Chúng thường được chỉ định sau khi thực hiện nhiều xét nghiệm huyết thanh và nước bọt. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng không được khuyến cáo vì vẫn đang thiếu đi các quy định về kiểm tra độ an toàn, biện pháp chuẩn hóa hàng loạt hay thử độ tinh khiết.

Androgen thay thế: Các androgen, bao gồm testosterone, đóng một vai trò quan trọng trong ham muốn tình dục nữ, mức năng lượng và nhận thức. Hướng dẫn của National Institute for Health and Care Excellence (NICE) - một viện nghiên cứu hàng đầu thế giới trong việc xây dựng các hướng dẫn điều trị chuyên môn và tiêu chuẩn chất lượng lâm sàng khuyến cáo nên bổ sung testosterone cho phụ nữ mãn kinh có ham muốn tình dục thấp nếu MHT (sử dụng nội tiết tố) không hiệu quả. Hiện tại, vẫn đang thiếu các chế phẩm testosterone được thiết kế để sử dụng ở phụ nữ và do đó, việc kê đơn các chế phẩm của nam giới dành cho phụ nữ là phổ biến. Các chế phẩm được sử dụng thường xuyên nhất là gel testosterone, thường được chỉ định ống 50mg sử dụng trong vòng 7-10 ngày. Điều này nhằm mục đích giữ mức testosterone trong mức hoạt động sinh lý để giảm thiểu tác dụng phụ (ví dụ như mụn trứng cá hoặc rậm lông).

 

Các thuốc thay thế thuốc nội tiết:

Một số phụ nữ có chống chỉ định với phương pháp MHT có thể chọn các thuốc thay thế. Phương pháp điều trị không nội tiết tố kém hiệu quả hơn và sẽ không cải thiện được các triệu chứng mãn kinh khác do thiếu hụt oestrogen, chẳng hạn như khô âm đạo, đau khớp và giảm ham muốn tình dục. Trong đó,  clonidine là liệu pháp không nội tiết tố duy nhất được cấp phép để điều trị các triệu chứng vận mạch do mãn kinh. Nhưng clonidine có tương tác với các thuốc tăng huyết áp và do đó, không thích hợp cho bệnh nhân bị huyết áp thấp.

    Pregabalin và gabapentin cũng có thể được sử dụng để điều trị đau thần kinh, đau nửa đầu và các triệu chứng vận mạch cho phụ nữ thời kỳ mãn kinh.

    Nghiên cứu điển hình ở một nhóm phụ nữ tuổi mãn kinh sử dụng tamoxifen sau khi điều trị ung thư vú dương tính thụ thể estrogen đang gặp phải các triệu chứng nóng bừng và đổ mồ hôi ban đêm. Bệnh nhân được chỉ định sử dụng venlafaxine và các triệu chứng nóng bừng, đổ mồ hôi ban đêm đều đã được cải thiện.

    Phương pháp điều trị sử dụng nội tiết tố

    MHT bao gồm oestrogen, progestogen và các chế phẩm kết hợp. Chúng được cấp phép để điều trị các triệu chứng mãn kinh và phòng ngừa loãng xương. Lựa chọn thuốc và đường đưa thuốc phụ thuộc vào tiền sử bệnh lý, tình trạng mãn kinh, tình trạng tử cung và cả sở thích của bệnh nhân. Oestrogen chỉ có một nguy cơ đáng kể là gây tăng sinh nội mạc tử cung, điều này có thể dẫn đến bệnh ác tính. Do đó, oestrogen phải dùng kết hợp với một progestogen để giảm tác dụng bất lợi trên tử cung của người sử dụng.

    MHT kết hợp có hai dạng: MHT kết hợp tuần tự (sc-MHT) và MHT kết hợp liên tục (cc-MHT).

    Với những phụ nữ sử dụng liệu pháp sc-MHT, oestrogen được uống hàng ngày và progestogen được sử dụng phổ biến nhất trong giai đoạn hoàng thể (ngày 15-28) của chu kỳ kinh nguyệt. Liệu pháp này dành cho những phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh và thường được dùng cho đến 51 tuổi hoặc là sử dụng ít nhất trong vòng một năm.

    Với những phụ nữ sử dụng liệu pháp cc-MHT, oestrogen và progestogen được dùng hàng ngày trong 12 tháng sau lần kinh nguyệt cuối, ở tuổi 52 hoặc 1 năm sau khi điều trị với sc-MHT. MHT thường được kê đơn trong vòng 5 năm của thời kỳ mãn kinh ở phụ nữ từ 50-59 tuổi, nhưng thời gian sử dụng nên được điều chỉnh phù hợp với từng đối tượng.

    MHT có thể được sử dụng thông qua đường uống, qua da (các dạng gel và miếng dán) hoặc cấy dưới da. Đường đưa thuốc sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm tiền sử bệnh lý và sở thích của bệnh nhân.Đường dùng qua da tránh được sự chuyển hóa bước một tại gan và do đó không làm tăng nguy cơ gây huyết khối tĩnh mạch (VTE).

    Theo Sức khỏe và đời sống