Ảnh minh họa 

Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Lao động Quốc tế lần thứ 107 gồm đại diện cơ chế ba bên: Chính phủ (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), người lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) và người sử dụng lao động (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam).

Năm nay, hội nghị thường niên của ILO đề cập một loạt vấn đề như bạo lực nơi làm việc, tình trạng quyền của người lao động trên toàn thế giới, lao động nữ, nghiên cứu các công cụ liên quan đến thời gian làm việc, đối thoại xã hội, vấn đề thực thi các tiêu chuẩn và hợp tác vì phát triển.

Phát biểu tại diễn đàn Hội nghị Lao động Quốc tế, Tổng Giám đốc ILO Guy Ryder kêu gọi các đại biểu thể hiện "tinh thần của cơ chế ba bên (chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động), thỏa hiệp và đồng thuận" để đối mặt với những thách thức về môi trường làm việc.

Theo người đứng đầu ILO, trong 11 ngày làm việc của hội nghị, các cuộc tranh luận sẽ tập trung vào các chủ đề: tại sao vấn đề tạo việc làm và công việc tốt, phù hợp lại có tầm quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình bền vững? Làm thế nào để những can thiệp thúc đẩy việc làm có thể đóng góp tốt hơn vào việc ngăn ngừa các xung đột, mang lại và duy trì hòa bình? Các đối tác chiến lược có thể mang lại đóng góp gì cho chương trình phát triển bền vững và duy trì hòa bình; và ILO có vai trò gì.

Ngày 5/6, thay mặt đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị thường niên ILO, Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà đã có bài phát biểu tại phiên họp toàn thể hội nghị.

Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà đánh giá cao và ủng hộ Sáng kiến thiên niên kỷ của ILO về “Phụ nữ tại nơi làm việc: lực đẩy hướng tới bình đẳng”. Sáng kiến này góp phần bổ sung cho các công cụ chính sách hiện tại nhằm thúc đẩy bình đẳng giới bằng cách tiếp cận mới, đảm bảo công bằng xã hội toàn cầu.

Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà khẳng định Việt Nam nhận thức rõ vai trò đóng góp của lao động nữ đối với sự thịnh vượng chung và phát triển bền vững, do đó, đảm bảo quyền của lao động nữ tại nơi làm việc là một trong các ưu tiên của Chính phủ Việt Nam. Điều này đã được thể hiện bằng việc ban hành luật pháp, chính sách để tạo điều kiện cho phụ nữ được nâng cao năng lực, kỹ năng quản lý, lãnh đạo và có nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận nguồn vốn, tiếp cận thị trường.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà, một trong những mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam là giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động.

Các chương trình, đề án như: giáo dục nghề nghiệp-việc làm và an toàn lao động, giảm nghèo bền vững, hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp... đã tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tiếp cận với cơ hội việc làm, tham gia vào thị trường lao động, thoát nghèo, nâng cao quyền năng kinh tế.

Với những nỗ lực đó, đến nay, lao động nữ chiếm 48,1% trong tổng số 54,8 triệu người lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ là 72%. Tỷ lệ phụ nữ tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp là hơn 25%. Khoảng cách về tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và thu nhập cũng được cải thiện đáng kể.

Quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra những cơ hội để thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế, song cũng đặt ra không ít thách thức, khó khăn, nhất là đối với phụ nữ. Phụ nữ ngày càng có nguy cơ bị loại ra khỏi nền kinh tế chính thức, hoặc có ít lựa chọn công việc hơn.

Vì vậy, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò, tiềm năng và thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực nữ. Từ đó, nâng cao địa vị của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới; thúc đẩy lồng ghép bình đẳng giới vào quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi toàn quốc.

Vừa qua, Việt Nam đã thông qua 2 nghị quyết về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội và tiền lương. Đây là cơ sở quan trọng để Quốc hội, Chính phủ và các đối tác ba bên của Việt Nam tiến hành các cải cách sâu rộng về hệ thống bảo hiểm xã hội và chính sách tiền lương gắn với quan hệ lao động.

Trong quá trình xây dựng 2 văn kiện quan trọng này, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật có hiệu quả của ILO.

Ngoài ra, các hoạt động hợp tác với ILO trong quá trình chuẩn bị sửa đổi Bộ luật Lao động; bình đẳng giới, quan hệ lao động, giáo dục nghề nghiệp, an toàn lao động... đang được triển khai hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc tăng cường năng lực cho Chính phủ và các đối tác xã hội.

Trong thời gian tới, Việt Nam mong muốn sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của ILO và các nước thành viên trong việc: thúc đẩy cải cách luật pháp lao động, đặc biệt là các chính sách bảo hiểm xã hội và quan hệ lao động; tăng cường các cơ chế đối thoại xã hội; nghiên cứu và phê chuẩn các công ước của ILO, đặc biệt là các công ước cơ bản; và triển khai Chương trình hợp tác quốc gia Việt Nam-ILO về việc làm bền vững giai đoạn 2017-2021.

Việt Nam cam kết sẽ nỗ lực thực hiện tốt nghĩa vụ thành viên; tiếp tục duy trì và thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hiệu quả giữa ILO và các đối tác ba bên tại Việt Nam.

Theo Phunuvietnam.vn