Bình yên vùng Hòn Kẽm Đá Dừng thượng nguồn sông Thu Bồn

Cơn mưa mỏng mảnh nhỏ hạt hắt vào ô cửa sổ của mui thuyền vừa đủ kéo tôi ra khỏi giấc mơ muộn mằn lúc trời còn chưa sáng tỏ. Thức dậy ngồi trông qua ô cửa, lơ đãng ngắm dòng Thu Bồn. Bên kia dòng sông, ngọn núi Dương Bồ mờ trong làn mưa mỏng và lõa xõa mây trôi trông cứ như vị thiền sư khổng lồ đang ngồi thiền định che chắn một góc trời. Nước sông Thu Bồn ở vùng thượng nguồn này, về đêm thường dâng lên do các thủy điện ở đầu nguồn xả lũ. Buổi sáng sớm mực nước còn ngập cái cồn cát ven sông, chỗ chiều tối qua mấy bạn trẻ văn nghệ đi làm công tác xã hội cùng tôi ngồi đốt lửa trại quây quần bên nhau ca hát. Trước thiên nhiên Hòn Kẽm Đá Dừng non xanh và mây nước chập chùng, lòng người ai cũng dễ dâng trào bao cảm xúc hòa điệu cùng cái khí vị hoang sơ cổ điển, để có những phút giây thảnh thơi thăng hoa mà quên đôi bàn chân nhọc nhằn lấm lem cát bụi ngày ngày trên mặt đất gập ghềnh.

Đã bao lần ngồi trên những chiếc thuyền máy ngược xuôi trên dòng Thu Bồn, khi thì những chuyến hàng cứu trợ, lúc thì bao cuộc hẹn hò với anh em bạn bè xa xứ lâu ngày về thăm quê, ấy vậy mà một đêm neo thuyền trên vùng Hòn Kẽm Đá Dừng, rồi nghỉ lại giữa lòng vạn đò Trà Linh - Hiệp Hòa thì quả đây là lần đầu tiên tôi được nếm trải.

Dọc theo các dòng sông trên vùng đất Quảng, tự bao giờ có bao nhiêu là vạn đò suốt từ miền biển cho đến tận thượng nguồn, Vạn Hội Khách, vạn Trước Hà, vạn Đại Sơn, vạn Phường Đông… dọc sông Vu Gia. Vạn Thu Bồn, vạn Cửa Đại, vạn Bình Yên, vạn Tý - Sé, vạn Trà Linh… dọc sông Thu Bồn. Cũng như nhiều vùng quê sông nước khác ở khắp mọi miền, những cuộc đời lênh đênh đời sống trên sông nước đã dần hồi được chuyển lên bờ, sống ổn định trong các khu tái định cư. Nghe đâu nguồn quỹ biến đổi khí hậu đã và đang tiến hành tài trợ cho các địa phương dọc theo tuyến sông Thu Bồn, xây dựng tiếp tục các khu tái định cư cho người dân ở các vạn đò còn lại.

Vậy là cái vạn đò Trà Linh mà chúng tôi neo thuyền trú lại qua đêm này, có thể là một trong những xóm vạn đò cuối cùng rồi sẽ được chuyển đổi đến nơi ở mới. Không hiểu sao, tôi cứ hình dung con sông Thu Bồn dằng dặc suốt từ miền thượng nguồn, tính từ chỗ tôi ngồi đây, xuôi về cho đến tận biển Cửa Đại - Hội An, rồi sẽ vắng bóng tất cả những vạn đò ở đôi bờ. Chuyện tất yếu thôi, vậy mà không dưng chợt một thoáng sắt se và nuối tiếc! Thì môi trường sông nước trong veo và quang rạng hơn ra mỗi ngày chứ có gì mà phải hoài cổ. Xã hội ngày mỗi văn minh hơn, những phận đời trôi dạt lênh đênh theo con cá con tôm, trên những chiếc thuyền con đánh bắt, được xóa đi, được thay vào đó nơi ăn chốn ở có tính bền vững, được như thế còn gì mà nuối tiếc. Vâng, tôi cũng chẳng rõ lòng như thế nào nữa nhưng cái giấc mơ muộn mằn về sáng trong đêm ngủ giữa lòng vạn đò Trà Linh thì quả thực là một giấc mơ đẹp.

Người con gái ngồi trong chiếc thuyền con, xõa tung mái tóc dài gội trên bến đò Bình Yên mà tôi bắt gặp trên đường đi, đã trôi chảy vào trong giấc mơ của tôi như là tặng vật của… cổ tích. Mà cổ tích thật, đến nỗi cô bạn trẻ - phóng viên của một tờ báo, đi cùng tôi trong chuyến đi cứu trợ, cũng trên vùng thượng nguồn sông Thu này, khi bắt gặp hình ảnh ấy đã vụt reo lên như gặp người của thời nào xa xưa lắm: "Anh ơi, xem người ta gội tóc trên sông kìa". Vậy đấy, người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông nhưng giấc mơ thì có thể tắm lại nhiều lần. Cái đẹp, cho dẫu dâu thành biển, vẫn bằng cách nào đó, sẽ lưu lại trong ký ức con người và đấy cũng là một thứ phù sa tưới tắm cho cây đời mãi mãi lên xanh.

Một ngày, giống như người cổ ngoạn cùng non xanh nước biếc Hòn Kẽm Đá Dừng và cả một đêm giữa lòng vạn đò Trà Linh, tôi biết sẽ khó lặp lại một lần như thế nữa, ngoại trừ giấc mơ sẽ dẫn dắt tôi về. Giấc mơ, có thể là em, khuya khoắt rồi còn ngồi trên nóc mui thuyền cùng tôi vu vơ ngắm… núi và miên man không biết bao câu chuyện trên trời dưới đất. Giấc mơ, có thể là ánh lửa bập bùng câu thơ tiếng hát, hồn nhiên như hoa cỏ ven sông trổ hết lòng. Giấc mơ, nào phải là một vọng tưởng gì đâu, mà là nơi ký ức tưới tắm xanh tươi giữ gìn những cái đẹp đã thành huyền thoại, một dạng tầng vĩa văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn con người.

Hình như ở những làng quê nghèo bán sơn địa gieo neo cách trở như Trà Linh, hoặc lên cao hơn chút nữa là Bình Kiều, để đối trọng lại cái nghèo khó gian khổ thiếu thốn, con người lại giàu có những giấc mơ và khát vọng nhiều hơn. Người chèo đò trên bến sông, cũng là dân xóm vạn Trà Linh, giữa một hoàng hôn say sưa ngồi nói với tôi về những giấc mơ sắp trở thành hiện thực. Năm người con của ông, đứa theo học đại học, đứa học nghề ở những phố xa, rồi sẽ trở về cái làng Trà Linh này góp sức mà xây dựng, chứ thay đổi đời sống lênh đênh vạn đò mà lên bờ rồi thất nghiệp thì trước sau gì cũng quay lại với sông nước mò tôm bắt cá. Mà tôm cá trên sông Thu Bồn giờ cũng chẳng còn mấy do môi trường đầu nguồn bị tàn phá nặng nề. Còn cô gái bán cà phê rong trên bến đò Trà Linh thì vì ham vui nên bỏ cả quán xá, quảy gánh xuống bến sông ngồi bán, chứ lời lãi gì năm ba ly cà phê với đoàn khách chúng tôi chỉ mấy con người. Trò chuyện với khách gần gũi, chân tình, nghe như ráo hoảnh, như chẳng có gì, ấy vậy mà bịn rịn lòng người đến thế.

Đã đến lúc thuyền tôi sắp nhổ sào về xuôi. Không biết rồi tiếp theo sau cái mái tóc dài gội trên sông nước kia trôi vào giấc mơ của tôi, sẽ còn bao nhiêu hình ảnh khác nữa. Những ánh lửa bập bùng trong đêm trên bến vắng, những gương mặt hồn hậu tôi mới làm quen, ly cà phê thơm hương đất trời hơn mọi thứ khác…, tất cả lại có thể sẽ ùa vào giấc mơ lên tiếng gọi bời bời thương nhớ. "Hỏi quê rằng biển xanh dâu, hỏi tên rằng mộng ban đầu đã xa"(thơ Bùi Giáng)! n

Nguyễn Nhã Tiên


Theo Người Lao động