1. Chất ức chế men chuyển - ACE

Thuốc ức chế men chuyển là một nhóm thuốc được sử dụng thường xuyên để điều trị huyết áp cao, suy tim và thường được kê đơn sau cơn đau tim. Một ví dụ phổ biến của thuốc này là ramipril.

Nhưng bạn có biết rằng thành phần hoạt chất trong thuốc ức chế ACE đầu tiên - captopril - có nguồn gốc từ nọc rắn!

Ra mắt vào năm 1981, captopril được sản xuất dựa trên thành phần nọc độc của loài Viper Brazil cực độc (Bothrops Jararaca).

Người đoạt giải Nobel, nhà khoa học John Vane ban đầu đã thử nghiệm các peptide từ nọc độc trên phổi chó, phát hiện ra rằng chúng có thể ngăn chặn hoạt động của men chuyển đổi angiotensin, từ đây John Vane đề xuất một chương trình nghiên cứu chất ức chế ACE. Nhiều lần sửa đổi, thử nghiệm sau đó, năm 1975 captopril ra đời.

10 loại thuốc tim có nguồn gốc kỳ lạ - Ảnh 1.

Thành phần hoạt chất trong thuốc ức chế ACE đầu tiên - captopril - có nguồn gốc từ nọc rắn...

Captopril ngày nay hiếm khi được kê đơn nhưng vẫn được cấp phép sử dụng cho bệnh cao huyết áp, suy tim và thậm chí là bệnh thận do tiểu đường. Đây là chất ức chế ACE đường uống hiệu quả đầu tiên và di sản của những phát triển tiếp theo trong nhóm thuốc này đã giúp kiểm soát huyết áp của hàng triệu người.

2. Aspirin

Aspirin là một trong những loại thuốc được sử dụng phổ biến và nguồn gốc của nó có thể bắt nguồn từ thời Ai Cập cổ đại.

Hợp chất tự nhiên mà ngày nay chúng ta biết là aspirin được tìm thấy trong vỏ cây liễu và trong hoa cỏ lau. Một văn bản y học cổ đại của Ai Cập, Ebers papyrus, đề cập đến việc sử dụng cây liễu như một loại thuốc chống viêm hoặc giảm đau. Ở Hy Lạp vào năm 400 trước công nguyên, Hippocrates đã cho phụ nữ uống trà lá liễu để giúp giảm bớt cơn đau khi sinh nở.

Năm 1828 tại Đại học Munich, Giáo sư Joseph Buchner đã thành công trong việc chiết xuất hoạt chất từ cây liễu, tạo ra tinh thể mà ông đặt tên là salicin. Thử nghiệm salicin trong một thử nghiệm lâm sàng vào năm 1876 cho thấy nó giúp giảm sốt và viêm khớp ở bệnh nhân thấp khớp, và vào năm 1897, người ta phát hiện ra rằng việc thêm một nhóm acetyl vào axit salicylic có thể làm giảm các đặc tính gây kích ứng của nó.

Axit acetylsalicyclic được đặt tên là aspirin vào năm 1899 bởi công ty dược phẩm Bayer, và loại thuốc này bắt đầu được bán trên khắp thế giới.

Ngày nay aspirin được sử dụng thường xuyên để giảm đau, đặc biệt là để giảm nguy cơ đột quỵ hoặc đau tim ở những đối tượng có nguy cơ.

3. Digoxin

Digoxin thuộc nhóm thuốc được gọi là glycoside. Thuốc chủ yếu được sử dụng để điều trị suy tim nhưng cũng có thể được sử dụng trong việc kiểm soát nhịp tim bất thường như rung nhĩ.

Thành phần hoạt chất trong digoxin có nguồn gốc từ bao tay cáo tía (digitalis purpurea). Về mặt lịch sử, việc sử dụng digitalis (thuộc nhóm các glucoside trợ tim) có thể bắt nguồn từ thời Ai Cập cổ đại. Bác sĩ người Anh William Withering được ghi nhận là người đã xuất bản mô tả đầu tiên về việc sử dụng nó vào năm 1785.

Sử dụng không đúng cách, digitalis có thể có độc tính cao, và trong trường hợp quá liều có thể gây buồn nôn cũng như nhịp tim bất thường.

10 loại thuốc tim có nguồn gốc kỳ lạ - Ảnh 2.

Thuốc aspirin được sử dụng để giảm đau và giảm nguy cơ đột quỵ.

4. Warfarin

Warfarin, thuộc nhóm thuốc được gọi là coumarin, là chất chống đông máu được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Warfarin được sử dụng để ngăn ngừa cục máu đông trong các tình trạng như rung nhĩ và bệnh thấp tim. Thuốc cũng được kê đơn để ngăn ngừa cục máu đông sau khi đặt van tim nhân tạo.

Bạn có thể đã biết rằng warfarin đã được phát triển để sử dụng làm thuốc diệt chuột trước khi nó được sử dụng trong y học con người. Nhưng bạn có biết rằng nó được phát hiện vào những năm 1920 sau khi những con gia súc khỏe mạnh trước đó ở Đồng bằng Bắc Mỹ và thảo nguyên của Canada bắt đầu chết vì chảy máu trong?

Khi không tìm thấy nguyên nhân nào khác, sự chú ý chuyển sang chế độ ăn của vật nuôi. Người ta thấy rằng gia súc đang ăn cỏ trên cỏ khô làm từ cỏ ba lá ngọt (Melilotus alba và Melilotus officinalis), tỷ lệ chảy máu cao nhất khi cỏ khô bị ẩm và kết quả là bị nhiễm các loại nấm mốc Penicillium nigricans và Penicillium jensi.

Sau đó, người ta phát hiện ra rằng coumarin hóa học tự nhiên, là nguyên nhân tạo ra mùi của cỏ khô mới cắt, biến thành dicoumarol khi nó bị nhiễm nấm mốc.

5. Nitrat

Glyceryl trinitrate (GTN) thuộc nhóm thuốc được gọi là nitrat. GTN hiện được sử dụng để kiểm soát cơn đau thắt ngực.

Trên thực tế, nó cũng giống như nitroglycerin - được sử dụng để chế tạo thuốc nổ và thuốc súng. Cái tên glyceryl trinitrate được cộng đồng y tế chọn để tránh cho những bệnh nhân lo ngại rằng nitroglycerin là một chất gây nổ.

Đặc tính giãn nở mạch máu mà nitrat được sử dụng phần lớn đã được quan sát vào năm 1847 bởi Abscanio Sobrero. Ông nhận thấy rằng tiếp xúc với nitroglycerin gây ra đau đầu. Điều này là do sự giãn nở của các mạch máu với liều lượng cao không chủ ý gây ra cơn đau.

Chính William Murrell là người đã đề xuất việc sử dụng nitrat để điều trị chứng đau thắt ngực và giảm huyết áp.

6.Statin

Statin chủ yếu được sử dụng để giảm cholesterol và giảm nguy cơ đau tim ở những người có nguy cơ.

Lịch sử của thuốc statin giảm cholesterol có thể bắt nguồn từ Nhật Bản. Năm 1970, nhà vi sinh vật học người Nhật Bản Akira Endo đã phân lập được hợp chất đầu tiên được biết đến để giảm cholesterol có tên là citirin từ Penicillium citrinum.

Hợp chất đầu tiên được gọi là mevastatin. Các thử nghiệm của mevastatin được phát hiện là có tác dụng giảm cholesterol trên động vật, nhưng nó được coi là quá độc hại đối với con người.

10 loại thuốc tim mạch có nguồn gốc kỳ lạ - Ảnh 4.

Statin là nhóm thuốc làm hạ mỡ máu, được sử dụng phổ biến.

Năm 1978, Alfred Alberts phát hiện ra chất lovastatin trong nấm sò. Điều này đã hình thành cơ sở cho sự phát triển của nhiều loại statin ngày nay. Nó được tìm thấy tự nhiên trong nấm sò (Aspergillus terreus và Pleurotus ostreatus), men gạo đỏ và pu-erh (một loại trà).

7. Quinidine

Quinidine là một loại thuốc chống loạn nhịp tim, được sử dụng trong điều trị một số vấn đề về nhịp tim, như rung nhĩ và nhịp nhanh kịch phát trên thất (PSVT).

Quinidine là một dẫn xuất của quinine, ban đầu được lấy từ vỏ cây canh ki na.

Bản thân quinine ngày nay vẫn được sử dụng để điều trị bệnh sốt rét, cũng như chứng chuột rút cơ bắp.

8. Alteplase

Alteplase là một loại thuốc được sử dụng trong xử trí khẩn cấp các cơn đau tim mà các phương pháp xâm lấn hơn như nong mạch hoặc phẫu thuật bắc cầu tim, không khả dụng.

Thuốc hoạt động bằng cách phá vỡ sự tắc nghẽn trong các mạch máu cung cấp cho tim.

Alteplase thuộc nhóm thuốc được gọi là chất hoạt hóa plasminogen loại mô (t-PA). t-PA được tìm thấy trong hầu hết các mô của động vật có vú, với dạng tinh khiết đầu tiên thu được từ mô tử cung của con người.

Khi các kỹ thuật phát triển, các kỹ thuật nhân bản và gen được sử dụng để sản xuất một lượng lớn, giống như insulin. Bản thân alteplase hiện nay phần lớn được phát triển từ các tế bào buồng trứng của chuột.

9. Aprotinin

Aprotinin là một loại thuốc chủ yếu được sử dụng trong phẫu thuật tim để giảm chảy máu ở bệnh nhân với mục đích giảm nhu cầu truyền máu.

Aprotinin là một chất ức chế trypsin ngăn ngừa sự phá vỡ các cục máu đông. Nó được phát hiện độc lập vào những năm 1930 và ban đầu được phân lập từ tuyến mang tai của bò (một loại tuyến nước bọt), và sau đó được tinh chế từ phổi bò.

Ban đầu nó được sử dụng để điều trị viêm tụy nhưng đã được sử dụng để ngăn ngừa mất máu trong quá trình phẫu thuật từ những năm 1960.

10. Clofibrate

Giống như statin, được sử dụng để giảm cholesterol, clofibrate được phát triển vào những năm 1950 được sử dụng để làm giảm nồng độ cholesterol.

Người ta nhận thấy rằng các công nhân nông trại ở Pháp bị ốm sau khi tiếp xúc với thuốc diệt côn trùng rải trên các cánh đồng có mức cholesterol đặc biệt thấp.

Clofibrate được phát triển bằng cách sử dụng một hợp chất hóa học khác có cùng tính chất với thuốc trừ sâu và thử nghiệm trên người. Thuốc không còn được sử dụng vì vào cuối những năm 1970, nó đã được phát hiện hại nhiều hơn lợi. Tuy nhiên, đây là loại thuốc hạ cholesterol đầu tiên vào những năm 1960 và trước sự phát triển của statin.

Clofibrate cũng hỗ trợ sự phát triển của thuốc fibrate mới hơn, vẫn được sử dụng kết hợp với statin cho những bệnh nhân có nguy cơ cao, hoặc để giảm mức độ cao của chất béo trung tính (một loại cholesterol) để ngăn ngừa viêm tụy.

Theo suckhoedoisong.vn