|
Người dân có thể dễ dàng mua các loại kháng sinh điều trị bệnh tại các nhà thuốc mà không cần đơn thuốc |
Vi khuẩn kháng lại mọi thuốc kháng sinh
Mắc bệnh gan mật bẩm sinh, ngay từ khi chào đời, bé N.T.M. (tỉnh Hà Tĩnh) đã phải nằm khắp các bệnh viện, từ tuyến huyện, tỉnh cho tới trung ương. Sau khi được phẫu thuật ở bệnh viện tuyến tỉnh, bé M. được cho về nhà nhưng chỉ một thời gian ngắn, đã sốt trở lại và được đưa tới Bệnh viện Nhi trung ương, được chẩn đoán sốt, nhiễm trùng trên nền bệnh cũ. Sau khi làm kháng sinh đồ (thử mức độ nhạy cảm của vi khuẩn với thuốc kháng sinh), các bác sĩ bất ngờ khi thấy vi khuẩn mà bé nhiễm phải kháng lại toàn bộ các nhóm kháng sinh.
Con người tạo ra thuốc kháng sinh để chống lại các bệnh do nhiễm vi khuẩn nhưng giờ đây, vi khuẩn lại có khả năng đề kháng lại thuốc kháng sinh. Kháng thuốc kháng sinh đang là mối đe dọa lớn đối với ngành y tế và cả xã hội.
Theo bác sĩ Phạm Hồng Sơn - Phó trưởng khoa Điều trị tích cực ngoại, Bệnh viện Nhi trung ương - đây là một trong những ca bệnh hiếm gặp ở bệnh viện này. Sau khi tìm kiếm, các bác sĩ đã lựa chọn được 1 loại kháng sinh rất hiếm khi được dùng và may là trẻ đáp ứng được với thuốc. Tiếc là sau đó, do bệnh nền của bé tiến triển và do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, gia đình đã xin cho bé về bệnh viện tỉnh điều trị. Nhiều khả năng bệnh viện tỉnh không có loại thuốc kháng sinh mà Bệnh viện Nhi trung ương đã áp dụng hiệu quả cho bệnh nhi này.
Theo một nghiên cứu do Bệnh viện Nhi trung ương công bố năm 2019, qua sàng lọc các bệnh nhi nhập viện có cấy phân (làm xét nghiệm nuôi cấy mẫu phân trong môi trường thạch dinh dưỡng nhằm phát hiện vi khuẩn hoặc nấm gây bệnh), có 30% bệnh nhi có vi khuẩn kháng thuốc.
Tình trạng kháng thuốc xuất hiện ở mọi lứa tuổi chứ không chỉ ở trẻ em. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã xếp Việt Nam vào nhóm các nước có tỉ lệ kháng thuốc kháng sinh cao trên thế giới.
Trong khi nhiều nước vẫn dùng kháng sinh thế hệ 1 hiệu quả thì Việt Nam đã phải dùng tới kháng sinh thế hệ 3 và 4. Nhiều loại vi khuẩn đã kháng thuốc kháng sinh, trong đó tỉ lệ kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn E.coli gây bệnh đường ruột và tiêu chảy tăng 40% trong 10 năm qua.
|
Bệnh viện Nhi trung ương đang hồi sức tích cực cho một bệnh nhi. Bệnh viện này rất chú trọng công tác phòng, chống nhiễm khuẩn, xem đây là biện pháp đặc biệt quan trọng góp phần phòng, chống tình trạng kháng thuốc kháng sinh |
Tích cực phòng, chống kháng thuốc
Kháng thuốc kháng sinh đang để lại nhiều hệ lụy và gánh nặng cho bệnh nhân, gia đình bệnh nhân, hệ thống y tế và xã hội. Theo WHO, mỗi năm, thế giới có hàng chục ngàn người tử vong do kháng thuốc. Việc kháng thuốc khiến các liệu pháp điều trị thông thường không hiệu quả, khiến tình trạng nhiễm trùng trở nên nghiêm trọng hơn, dẫn đến thời gian bị bệnh lâu hơn, chi phí điều trị và nguy cơ tử vong cao hơn. Thêm vào đó, ngày càng có nhiều bệnh nhiễm trùng thông thường như viêm phổi, nhiễm trùng đường tiết niệu, lao… trở nên khó điều trị hơn, có khi không thể điều trị được.
Phó giáo sư, tiến sĩ Chu Thị Hạnh - Phó chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam - cho hay, có 3 nhóm thuốc chính để điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng, gồm penicillin, cephalosporin và macrolid. Tuy nhiên, theo một số công trình nghiên cứu của Việt Nam và thế giới, độ nhạy cảm của vi khuẩn đối với các nhóm thuốc kháng sinh này đang giảm dần.
Theo các chuyên gia y tế, việc phòng bệnh không tốt - bao gồm việc phòng bệnh của cá nhân và việc phòng, chống nhiễm khuẩn ở các cơ sở y tế - sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn và kháng thuốc. Việc dùng thuốc kháng sinh tùy tiện cũng làm tăng khả năng kháng thuốc kháng sinh.
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn cho biết, bệnh nhân ở các khoa hồi sức, cấp cứu của các bệnh viện có nguy cơ bị nhiễm khuẩn rất cao do phải chịu nhiều thủ thuật như đặt kim truyền, lọc máu hay cấy ghép các bộ phận trong cơ thể. Do đó, các bệnh viện phải kiểm soát chặt chẽ việc nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, bệnh nhân cần dùng thuốc theo toa của bác sĩ chứ không nên tự ý mua, tùy tiện dùng.
Năm 2013, Bộ Y tế đã phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc giai đoạn 2013-2020. Chính phủ cũng phê duyệt Chiến lược quốc gia về phòng, chống kháng thuốc giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ông Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) - cho rằng, để thực hiện hiệu quả các kế hoạch, chiến lược này, cần sự nỗ lực của ngành y tế và của cả cộng đồng.
3 mức độ kháng thuốc kháng sinh
Khoảng 10 năm trở lại đây, tình trạng kháng thuốc có xu hướng gia tăng, trở thành mối quan tâm toàn cầu. Khi nhiễm phải vi khuẩn kháng thuốc, việc dùng thuốc sẽ không hiệu quả. Có nhiều nhóm kháng thuốc khác nhau nhưng tình trạng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh là phổ biến hơn cả.
Kháng thuốc kháng sinh được chia làm 3 mức độ, gồm đa kháng (vi khuẩn kháng ít nhất 1 kháng sinh trong 3 nhóm kháng sinh được kiểm tra), kháng mở rộng (vi khuẩn kháng ít nhất 1 kháng sinh trong hầu như tất cả các nhóm kháng sinh, trừ 1-2 nhóm), toàn kháng (vi khuẩn kháng tất cả các thuốc, các nhóm kháng sinh). Tuy nhiên, việc xác định vi khuẩn toàn kháng khá khó khăn do có một số thuốc trên thế giới có nhưng Việt Nam chưa có hoặc chưa dùng, nên việc xác định chỉ ở mức tương đối.
Thạc sĩ, bác sĩ Phạm Hồng Sơn
Phó trưởng khoa Điều trị tích cực ngoại,
Bệnh viện Nhi trung ương
Thiếu các nhómthuốc kháng sinh mới
Tại hội nghị khoa học do Hội Hô hấp Việt Nam và Hội Phổi Pháp - Việt tổ chức mới đây, vấn đề kháng thuốc kháng sinh nhận được nhiều ý kiến của các chuyên gia. Theo phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Xuyên - Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam - hiện nay, bệnh lý hô hấp ngày càng phức tạp. Đặc biệt, tình trạng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh đang làm cho công tác chẩn đoán và điều trị gặp nhiều khó khăn.
Giáo sư, tiến sĩ Hans Liu (Bệnh viện Bryn Mawr, Mỹ) nhận định, thế giới đang thiếu các phát minh về nhóm thuốc kháng sinh mới. Hơn 10 năm qua, không có phát minh mới về thuốc kháng sinh, trong khi số lượng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh lại tăng mạnh, đặc biệt là từ khi xảy ra đại dịch COVID-19.
Năm 2045, kiểm soát cơ bản tình trạng kháng thuốc
Theo Chiến lược quốc gia về phòng, chống kháng thuốc giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được Chính phủ phê duyệt, từ nay đến năm 2030, có 4 mục tiêu cần hướng tới. Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền địa phương và hiểu biết của nhân viên y tế, thú y và người dân về phòng, chống kháng thuốc.
Thứ hai, củng cố hệ thống giám sát kháng thuốc để cảnh báo kịp thời về sự xuất hiện, lan truyền, mức độ và xu hướng kháng thuốc của các vi sinh vật. Thứ ba, giảm sự lan truyền của vi sinh vật và bệnh truyền nhiễm. Thứ tư, sử dụng thuốc kháng vi sinh vật ở người và động vật hợp lý, an toàn và có trách nhiệm.
Theo chiến lược này, phấn đấu đến năm 2045, cả nước kiểm soát cơ bản tình trạng kháng thuốc, có hệ thống giám sát việc sử dụng, tiêu thụ kháng sinh và kháng thuốc hiệu quả tương đương với các nước phát triển.
Chiến lược này cũng nhấn mạnh về công tác thông tin, truyền thông và vận động xã hội trong việc giáo dục, nâng cao nhận thức của nhân dân về các nguyên nhân gây kháng thuốc, hậu quả của tình trạng kháng thuốc và các biện pháp phòng, chống, từ đó duy trì cam kết của cá nhân và xã hội đối với việc thay đổi hành vi để sử dụng thuốc kháng sinh một cách có trách nhiệm. Đặc biệt, hệ thống giám sát kháng thuốc phải được tăng cường, trong đó triển khai chương trình quản lý việc sử dụng kháng sinh, quản lý việc kê đơn thuốc và bán thuốc theo đơn.
|
Theo phụ nữ TPHCM