Nguyên nhân gây bướu cổ

Bướu cổ là bệnh lý của tuyến giáp, đây là một tuyến nội tiết nằm ở phía trước, dưới thấp của cổ, ép vào các mặt bên của thanh quản và những vòng đầu tiên của khí quản.

Bướu cổ bao gồm nhiều loại như: Bướu lành, Basedow, ung thư, viêm tuyến giáp... làm thay đổi chức năng tuyến giáp và dẫn đến cường giáp hoặc suy giáp ở người bệnh.

Có nhiều nguyên nhân gây bệnh bướu cổ như:

  • Do thiếu hụt iod
  • Do người bệnh sử dụng thuốc hoặc thức ăn nhanh
  • Do bẩm sinh hoặc mắc phải bệnh lý tự miễn
  • Do thay đổi nội tiết tố khi mang thai hoặc cho con bú.
Ung thư tuyến giáp là căn bệnh nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời

HÌnh ảnh bướu cổ

Biểu hiện bệnh bướu cổ lành tính và ác tính

Khi mắc phải bướu cổ, người bệnh thường có những dấu hiệu như sụt cân, cổ phình to, mất ngủ, tăng cân, rụng tóc, run tay, hồi hộp, đổ mồ hôi... Cần phải thăm khám và tiến hành các xét nghiệm mới có thể xác định chuẩn xác căn bệnh này.

Hầu hết các khối u tuyến giáp là lành tính, nhưng có khoảng 5% là loại ác tính (ung thư tuyến giáp). Sau khi thăm khám, siêu âm, xét nghiệm máu, chọc hút tế bào... để xác định loại bướu cổ. Đặc biệt, khi bướu cổ ác tính mới bắt đầu sẽ chưa gây ra bất cứ bất thường nào mà chỉ phát hiện được qua siêu âm kiểm tra hoặc tình cờ khi chụp CT, MRI, PET vùng cổ vì bệnh khác.

Triệu chứng xuất hiện khi bướu tiến triển

  • Xuất hiện khối u ở cổ: Chúng ta có thể nhận biết khối u lành tính khi nuốt sẽ di chuyển lên xuống, còn khối u ác tính sẽ không di chuyển khi nuốt.
  • Bị khàn giọng: Giọng nói chuyển khàn bởi các dây thần kinh thanh quản bị kiểm soát các cơ mở, đóng dây thanh quản, nằm ở phía sau tuyến giáp. Khi tình trạng nặng hơn, các khối u tuyến giáp có thể lan rộng và làm tổn thương nặng nề đến hộp âm thanh.

Khi kiểm tra các u giáp có đặc điểm cứng, bờ rõ, bề mặt gồ ghề hoặc nhẵn, di động theo nhịp nuốt. Có hạch vùng cổ, hạch nhỏ, mềm, di động, xuất hiện cùng bên với khối u.

Các triệu chứng của ung thư tuyến giáp muộn

Khi ở giai đoạn muộn u ác tính có các biểu hiện như:
  • Khối u to, cứng rắn, cố định trước cổ.
  • Khàn tiếng nặng, khó thở
  • Khó nuốt, nuốt vướng, đau do u chèn ép
  • Da ở vùng cổ bị sậm màu, thâm, thậm chí là sùi loét, chảy máu
  • Khi siêu âm thấy rõ các khối u tuyến giáp, phát hiện ung thư tuyến giáp rõ ràng.

Các phương pháp điều trị bệnh bướu cổ

Có rất nhiều phương pháp điều trị bướu cổ, tùy thuộc vào tình trạng bệnh mà bác sĩ sẽ chỉ định 1 trong 3 phương pháp sau:
  • Phóng xạ iốt
Bệnh nhân sẽ uống iốt phóng xạ, sau đó iốt sẽ theo máu đến tuyến giáp để phá hủy tế bào. Phương pháp này có hiệu quả cho khoảng 90% trường hợp điều trị, trong đó 50 – 60% người bệnh giảm kích thước bướu sau 12 – 18 tháng. 
  • Uống thuốc

Nếu bệnh nhân suy giáp, bác sĩ sẽ chỉ định thuốc thay thế hormone tuyến giáp. Các loại thuốc này sẽ làm chậm việc giải phóng hormone kích thích tuyến giáp từ tuyến yên nên giúp bướu nhỏ lại. Nếu nguyên nhân là do viêm tuyến giáp, bác sĩ sẽ chỉ định uống aspirin hoặc thuốc corticosteroid để điều trị. 

  • Phẫu thuật

Nếu bướu có kích thước lớn, gây khó chịu, khó thở hoặc khó nuốt thì bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật. Bác sĩ sẽ lựa chọn một trong các các phương pháp cắt thùy, cắt giáp gần trọn, cắt giáp toàn phần, cắt eo giáp. Ngoài ra, trong một số trường hợp có thể chọc hút bằng kim để rút nước cho trường hợp bướu chứa nước (gọi là nang giáp).

Bướu cổ có nên mổ không?

Phần lớn bướu cổ lành tính và hầu như không phải phẫu thuật. Chỉ trong những trường hợp thật sự cần thiết mới có chỉ định phải dùng đến phương pháp mổ. Các trường hợp bướu lành cần phải mổ gồm:

  • Bướu lành gây chèn ép khó thở, khó nuốt hoặc gây mất thẩm mỹ
  • Bướu cổ ác tính
  • Bắt buộc mổ cổ khi bướu nhân tuyến giáp ác tính (ung thư): chẩn đoán nhân ác tính bằng sinh thiết.
  • Bướu giáp nhân có kết quả sinh thiết không ác tính nhưng nghi ngờ ác tính (tế bào học hay trên siêu âm).
  • Bướu giáp nhân có tiền sử gia đình trực hệ có người bị ung thư (K) giáp.
  • Bướu giáp đủ lớn gây chèn ép, gây triệu chứng cho bệnh nhân.

Lưu ý: Bướu cổ là vấn đề thường gặp, thường lành tính nên việc mổ không cần thiết. Khi bướu lành, nhỏ, không gây khó chịu, không cần điều trị và theo dõi bằng cách tái khám định kỳ mỗi 1 - 2 năm một lần. Vì vậy người bệnh không quá lo lắng khi biết mình mắc bướu cổ. Tuy nhiên, người bệnh lưu ý đi khám ngay nếu có thay đổi vùng cổ hoặc bất thường trong cơ thể như: Rối loạn chức năng tuyến giáp loại cường giáp.

Theo suckhoedoisong.vn