1. Kiến thức giá trị từ giấy cói y học Ai Cập cổ đại

Nền văn minh Ai Cập kéo dài hàng thế kỷ dọc theo bờ sông Nile là một trong những nền văn minh vĩ đại nhất và lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại, nổi tiếng với những thành tựu vượt trội trong một số lĩnh vực bao gồm nghệ thuật, khoa học và y học.

Trong thế giới cổ đại, người Ai Cập nổi tiếng về việc chăm sóc y học. Kiến thức về y học của Ai Cập cổ đại có niên đại ít nhất khoảng 3.500 năm được ghi nhận từ ba loại giấy cói chính: Ebers, Edwin Smith và Kahun Gynecological Papyri. Nhiều hướng dẫn trong giấy cói bao gồm các phương thuốc sử dụng hàng trăm thành phần. Một số thành phần đó gần đây đã cung cấp bằng chứng trong phòng thí nghiệm cho thấy chúng có chứa các đặc tính dược phẩm hiệu quả.

Cách thử thai 3500 năm trước chính xác một cách đáng ngạc nhiên - Ảnh 1.

Giấy cói Ebers được viết bằng chữ viết của giáo sĩ Ai Cập và là bản ghi chép rộng rãi nhất, được bảo tồn tốt nhất về y học Ai Cập cổ đại được biết đến.

Các Pharaoh ghi lại các sự kiện diễn ra hàng ngày bằng cách sử dụng ngôn ngữ chữ tượng hình bằng cách khắc trên tường của các ngôi đền, đá, đất sét hoặc giấy cói. Bản dịch của phiến đá Rosetta vào năm 1822 đã tạo cơ hội tuyệt vời cho việc dịch một số giấy cói của Ai Cập cổ đại, bao gồm cả giấy cói y tế. Ngôn ngữ được sử dụng để viết trên giấy cói chủ yếu là chữ hieratic, được viết từ phải sang trái, sử dụng mực đỏ cho tiêu đề và mực đen cho phần lớn. Giấy cói được làm từ giấy cói Cyperus bằng cách tách xen kẽ, giã trong nước và sấy khô để tạo thành những tờ giấy màu nâu sau đó được viết bằng bút lông và mực, cuối cùng dán ở các cạnh, tạo thành một cuộn.

Giấy cói y tế của người Ai Cập cổ đại đã ghi lại một số chi tiết về cách họ hành nghề y. Giấy cói mô tả sâu sắc về các bệnh, cách chẩn đoán và các phương pháp điều trị khác nhau. Những phương thuốc này bao gồm các phương pháp điều trị bằng thảo dược, đôi khi là phẫu thuật và thậm chí cả các phép thuật. Bắt đầu từ thời Trung Vương quốc, khoảng năm 1800 đến năm 300 trước Công nguyên, phần còn lại của hơn 40 cuộn giấy cói mô tả các thủ tục y tế dùng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau đã được khám phá.

Hầu hết kiến thức của chúng ta về y học cổ truyền Ai Cập đều có nguồn gốc từ giấy cói y tế của Ai Cập cổ đại bao gồm giấy cói Ebers, giấy cói Edwin Smith, giấy cói Kahun, giấy cói y tế Ramesseum, giấy cói Hearst, giấy cói y tế London, giấy cói Brugsch, giấy cói Carlsberg, giấy cói y tế Chester Beatty, giấy cói Brooklyn, giấy cói Erman và giấy cói Leiden.

2. Giấy cói phụ khoa Kahun, tránh thai và thụ thai

Cách thử thai 3.500 năm trước độc đáo và chính xác một cách đáng ngạc nhiên - Ảnh 3.

Giấy cói phụ khoa Kahun (khoảng năm 1.800 trước Công nguyên) đề cập đến các vấn đề về thụ thai và mang thai cũng như biện pháp tránh thai. Nó được lưu giữ tại Bảo tàng Khảo cổ Ai Cập Petri.

Văn bản bao gồm 34 phần đề cập đến các kỹ thuật phụ khoa, tránh thai và thụ thai. Tất cả các phương pháp điều trị đa dạng trong giấy cói Kahun đều không phẫu thuật mà bao gồm xông hơi, xoa bóp và đưa thuốc vào cơ thể dưới dạng vòng nâng hoặc dạng lỏng để uống hoặc xoa lên da. Vì lý do nào đó, đôi mắt và tử cung có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về sức khỏe và y học của người Ai Cập cổ đại. Giấy cói thảo luận về từng trường hợp, mô tả ngắn gọn về các triệu chứng, sau đó bác sĩ sẽ được tư vấn cách thông báo cho bệnh nhân về chẩn đoán của mình và cuối cùng, đề xuất phương pháp điều trị.

Việc kiểm soát sinh sản được các nữ hộ sinh chấp nhận về mặt xã hội và tôn giáo. Giấy cói phụ khoa Kahun liệt kê một số công thức chế tạo các biện pháp tránh thai được đặt bên trong có niên đại từ năm 1.800 trước Công nguyên. Hướng dẫn chứa các thành phần như natron, một loại muối được tìm thấy ở nhiều hồ khác nhau ở Ai Cập, kẹo cao su keo, sữa chua và phân cá sấu. Tất cả đều có đặc tính diệt tinh trùng. Natron hoạt động như một chất hút ẩm. Sữa chua đóng góp acid lactic. Và kẹo keo có chứa saponin triterpene. Ngay cả phân cá sấu cũng có phần có tính kiềm. Độ kiềm cao hơn là một thành phần của chất diệt tinh trùng hiện đại.

3. Phương pháp thử thai độc đáo của phụ nữ Ai Cập cổ đại

Ngày nay, que thử thai được biết đến là một công cụ được sử dụng rộng rãi để phát hiện nồng độ hormone hCG, loại hormone mà cơ thể tiết ra khi mang thai có trong nước tiểu. Ít ai biết, phụ nữ Ai Cập cách đây 3.500 năm đã có cách thử thai bằng nước tiểu đặc biệt như thế nào.

Phương pháp phiên bản thử thai của người Ai Cập đã được mô tả trong cuốn sách hướng dẫn lâu đời nhất dành cho các nữ hộ sinh, The Birth of Mankind từ năm 1540.

Việc thử thai liên quan đến lúa mạch và hạt lúa mì đã không biến mất cùng với sự sụp đổ của Ai Cập cổ đại. Thử nghiệm này xuất hiện trở lại trong các văn bản y học của Hy Lạp và La Mã, cũng được sử dụng ở châu Âu thời Trung cổ. Kiểu thử thai từng được người Ai Cập cổ đại sử dụng là một phần của y học dân gian Đức vào thế kỷ 17.

Trong cách thử thai đầu tiên được biết đến, phụ nữ Ai Cập cổ đại đã đi tiểu vào hạt lúa mạch hoặc lúa mì và đợi chừng 1 tuần nếu hạt nảy mầm nhanh cho thấy có thai. Mặc dù điều này nghe có vẻ giống giả khoa học nhưng một số nghiên cứu hiện đại đã chỉ ra rằng nó xác định chính xác tới 70-85% trường hợp mang thai.

Người Ai Cập cổ đại chắc chắn đã tin vào điều gì đó khi thực hiện phương pháp thử thai bằng nước tiểu, vì các xét nghiệm mang thai hiện đại ngày nay cũng hoạt động theo cách tương tự là xác định nồng độ hormone hCG - loại hormone chỉ tiết ra khi mang thai có trong nước tiểu của phụ nữ.

Cách thử thai 3.500 năm trước độc đáo và chính xác một cách đáng ngạc nhiên - Ảnh 4.

Cách đây 3.500 năm, phụ nữ Ai Cập đã có cách thử thai bằng nước tiểu đặc biệt.

Văn bản y học 3.500 năm tuổi bao gồm quy trình xác định thai kỳ và giới tính của em bé cũng nằm trong số đó. Để tìm hiểu, trước tiên người phụ nữ phải tiểu vào một túi lúa mì và một túi lúa mạch. Chiếc túi nảy mầm đầu tiên sẽ tiết lộ việc mang thai con trai hay con gái, nếu lúa mạch là con trai còn lúa mì là con gái, tuy nhiên vẫn có một số tranh cãi về loại ngũ cốc chính xác được sử dụng và loại ngũ cốc nào biểu thị giới tính nào. Nếu cả hai túi đều không nảy mầm nghĩa là người phụ nữ không có thai.

Trên thực tế, thử nghiệm lúa mạch và lúa mì đã kéo dài rất lâu. Nhiều ý tưởng trong các văn bản y học từ thời Ai Cập cổ đại xuất hiện trở lại trong các văn bản Hy Lạp và La Mã sau này. Từ đây, chúng lan rộng hơn đến các văn bản y học thời trung cổ ở Trung Đông và có thể tìm thấy dấu vết cho đến y học tiền hiện đại. Điều đó cho thấy các ý tưởng của người Ai Cập đã để lại dấu vết hàng nghìn năm sau.

Vậy có bằng chứng khoa học nào đằng sau bài kiểm tra cổ xưa này không? Theo Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, vào năm 1963 các nhà nghiên cứu đã quyết định thử nghiệm phương pháp này. Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Lịch sử Y tế, họ phát hiện ra rằng lúa mì và lúa mạch được tưới bằng nước tiểu của nam giới và phụ nữ không mang thai sẽ giữ cho ngũ cốc không nảy mầm. Nhưng trong khoảng 70% trường hợp, nước tiểu của phụ nữ mang thai đã khiến hạt nảy mầm. Có thể nồng độ estrogen tăng lên trong nước tiểu có thể đã giúp kích thích hạt giống. Tuy nhiên, bài kiểm tra không dự đoán chính xác giới tính của trẻ.

Trong một bài báo trên tạp chí Hóa học lâm sàng, tác giả Glenn Braunstein mô tả xét nghiệm lúa mì, lúa mạch là xét nghiệm thử thai tại nhà đầu tiên và là một khái niệm dẫn đến "các nhà tiên tri tiểu tiện" của thời Trung cổ (tiêu đề thật), các bác sĩ chẩn đoán mang thai và bệnh tật bằng cách kiểm tra nước tiểu. Những bác sĩ đó sẽ nhìn vào màu sắc của nước tiểu để xác định có thai hoặc đôi khi họ trộn nó với rượu để xem có phản ứng hay không. Một xét nghiệm phổ biến khác là ngâm một dải ruy băng vào nước tiểu của người phụ nữ rồi đốt nó, nếu mùi đó khiến người phụ nữ buồn nôn thì cô ấy đang mang thai.

Thật đáng ngạc nhiên về kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực y tế khác nhau của người Ai Cập cổ đại, nhiều kinh nghiệm đã được đề cập trong một số giấy cói y tế và đây có thể là một nguồn tài liệu tham khảo để học hỏi một số điều từ một nền văn minh vĩ đại này.

Theo suckhoedoisong.vn