Bệnh lupus có niên đại ít nhất là từ thời Trung cổ và Hippocrates (460-375 TCN) là người đầu tiên mô tả các vết loét trên da dưới tiêu đề herpes esthiomenos. Theo những gì chúng ta có thể biết, Herbernus ở Tours (Pháp) là người đầu tiên áp dụng thuật ngữ lupus cho một bệnh ngoài da vào năm 916 sau Công nguyên. Sau đó, một số thuật ngữ bao gồm lupus, noli me tangere, và herpes esthiomenos được sử dụng để mô tả các vết loét trên da.
Từ lupus được nhắc đến lần đầu tiên vào khoảng năm 850 sau Công Nguyên. Ban đầu, thuật ngữ này được sử dụng để mô tả các tổn thương được cho là giống vết cắn của chó sói. Các tài liệu lịch sử ban đầu đã gợi ý rằng thuật ngữ lupus đã được sử dụng một cách rõ ràng trong thời kỳ trung đại và thời kỳ Phục hưng cho nhiều loại bệnh đặc trưng bởi các tổn thương loét, đặc biệt là ở các chi dưới.
Bước ngoặt thực sự trong lịch sử của bệnh lupus xảy ra ở London vào đầu thế kỷ 19 khi Robert Willan và học trò của ông là Bateman xuất bản cuốn sách các bệnh về da đầu tiên (1786–1817) có chứa hình ảnh của một bệnh nhân mắc bệnh lupus.
Năm 1828, bác sĩ da liễu người Pháp, Biett mô tả căn bệnh này. Trong 45 năm tiếp theo, các nghiên cứu về căn bệnh này không cho thấy gì hơn ngoài những mô tả nhấn mạnh những thay đổi về da. Vào giữa những năm 1800, Pierre Cazenave là người đầu tiên mô tả toàn diện về bệnh lupus. Căn bệnh này được đặt tên vì phát ban hình chó sói (ban bướm) xuất hiện trên mũi và má của nhiều bệnh nhân lupus. “Lupus” là từ tiếng Latinh có nghĩa là chó sói.
Năm 1856, bác sĩ da liễu người Áo Ferdinand von Hebra đã công bố những hình ảnh minh họa đầu tiên về bệnh lupus ban đỏ trong Atlas of Skin Diseases. Thật đáng kinh ngạc, một xác ướp người Peru của một cô gái 14 tuổi (có niên đại khoảng năm 890 sau Công nguyên), người được cho là mắc bệnh lupus đã được ghi lại và nghiên cứu.
Lịch sử của bệnh lupus sẽ có một bước ngoặt mới từ năm 1872 đến năm 1905, với sự đóng góp lớn của Kaposi, Sequiera & Balean, và Osler, người sẽ cho phép nhận biết đúng bản chất toàn thân của bệnh ( Lupus Erythematosus hệ thống ).
Một trong những sự kiện lớn nhất xảy ra vào năm 1948 khi bác sĩ huyết học người Mỹ Malcolm Hargraves và các đồng nghiệp của ông phát hiện ra tế bào lupus ban đỏ đầu tiên và những người mắc pulus có tế bào LE trong máu. Điều này cho phép các bác sĩ phát triển một xét nghiệm máu đơn giản giúp những người mắc các dạng bệnh lupus nhẹ hơn được chẩn đoán sớm hơn.
Năm 1952, con người bắt đầu sử dụng phương pháp ức chế miễn dịch đầu tiên để điều trị bệnh lupus, với việc sử dụng mù tạt có chứa nitơ.
Nhiều phương pháp điều trị đã được đề xuất cho bệnh lupus trong suốt các thời đại, bao gồm sử dụng sắt nung đỏ hoặc chất ăn da để diệt độc, chất ăn mòn (từ thời trung cổ đến kỷ nguyên hiện đại), radium (1900–1905) và thậm chí cả ánh sáng mặt trời ở London vào năm 1905.
Quinine được giới thiệu vào năm 1894 trong khi hầu hết các phương pháp điều trị SLE hiện đại xuất hiện vào nửa sau của thế kỷ 20: glucocorticoid (1948–1952), quinacrine (1951), cyclophosphamide (1954), hydroxychloroquine (1956), azathioprine (1957) và mycophenolate mofetil (Những năm 1980). Cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 được đánh dấu bằng sự hiểu biết tốt hơn về cơ chế bệnh sinh của bệnh và đánh giá hệ thống các phương pháp điều trị, mở đường cho việc cải thiện chẩn đoán và chăm sóc tốt hơn cho bệnh nhân lupus.
Tuy nhiên, trải qua hàng nghìn năm, nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được biết rõ và bệnh lupus ban đỏ hệ thống không thể điều trị khỏi hoàn toàn, song có thể kiểm soát được bệnh nếu điều trị đúng cách.. Phần lớn các nghiên cứu gợi ý rằng có 3 yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến quá trình phát sinh bệnh gồm: Di truyền, môi trường và hormone giới tính.
Theo TS Nguyễn Lan Anh, Trung tâm Da liễu – Dị ứng, Bệnh viện 108: “Tổn thương của lupus ban đỏ rất đa dạng, có thể biểu hiện ở da, niêm mạc, thần kinh-tâm thần, tim mạch, thận, phổi-màng phổi... với mức độ khác nhau. Bệnh nhân có thể tử vong do tổn thương thận, phổi, tim không hồi phục”.
Theo suckhoedoisong.vn