Nghiên cứu mới cho thấy tiền sử bệnh vú lành tính có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú ở phụ nữ sau này, do đó các nhà nghiên cứu hàng đầu đề xuất các khuyến nghị sàng lọc ung thư vú được cá nhân hóa hơn. Các chi tiết của nghiên cứu đã được công bố trên Tạp chí Quốc tế về Nghiên cứu Môi trường và Sức khỏe Cộng đồng.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ hơn 778.000 phụ nữ Tây Ban Nha trong độ tuổi từ 50 đến 69, những người đã trải qua chụp Xquang tuyến vú ít nhất một lần trong khoảng thời gian 20 năm từ 1996 đến 2015.
So với những người không mắc bệnh vú lành tính, những người mắc bệnh ung thư vú có nguy cơ phát triển gần gấp đôi và nguy cơ cao kéo dài ít nhất 20 năm. Phụ nữ mắc bệnh vú lành tính tăng sinh cũng có nguy cơ cao hơn những người mắc bệnh không tăng sinh.
Theo TS. Marta Román, tác giả chính của nghiên cứu, kết quả nghiên cứu gợi ý rằng bệnh vú lành tính là dấu hiệu chính cho thấy phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn, chứ không chỉ đơn giản là thứ có thể phát triển thành ung thư. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu thường phát hiện bệnh lành tính ở một bên vú và sau đó ung thư phát triển ở bên vú còn lại. Tuy nhiên, mặc dù có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú với bệnh vú lành tính, nhưng rủi ro tổng thể vẫn còn nhỏ.
Bệnh vú lành tính là yếu tố nguy cơ lâu dài đối với ung thư vú
Bệnh vú lành tính là một nhóm các tình trạng được đánh dấu bằng những thay đổi không phải ung thư (lành tính) trong mô vú. Hầu hết các tình trạng vú lành tính không làm tăng nguy cơ ung thư, nhưng một số - bao gồm tăng sản không điển hình, sự phát triển quá mức của các tế bào lót các tiểu thùy và ống dẫn bên trong vú - có liên quan đến nguy cơ phát triển ung thư vú cao hơn.
Theo TS. Larry Norton, Giám đốc y tế của Trung tâm Vú Evelyn H. Lauder tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, tình trạng lành tính này không phải là yếu tố rủi ro lớn nhất để phát triển ung thư vú; thay vào đó, chúng cảnh báo mọi người làm những gì có thể để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Mặc dù mối liên hệ giữa bệnh vú lành tính và tăng nguy cơ ung thư không phải là mới, nhưng nghiên cứu mới đã tìm cách khám phá những rủi ro lâu dài của chẩn đoán ung thư vú sau khi phát hiện bệnh vú lành tính và phân tích những khác biệt tiềm ẩn về tần suất sàng lọc ở những phụ nữ mắc bệnh ung thư vú.
Tầm quan trọng của việc sàng lọc ung thư vú được cá nhân hóa
Theo Tiến sĩ Norton, nghiên cứu mới nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải có các công cụ chẩn đoán và phòng ngừa ung thư tiên tiến. Tiến sĩ Norton cho biết: Một trong những cách tiếp cận thú vị hơn đối với bệnh ung thư vú được gọi là sàng lọc điều chỉnh theo rủi ro. Nó không chỉ là chụp Xquang tuyến vú một kích cỡ phù hợp với tất cả mọi người; một số người cần nhiều hơn là chỉ chụp Xquang tuyến vú.
Ví dụ, những người có bộ ngực to, vú có lượng mô tuyến và mô sợi tương đối cao hơn, đồng thời ít mô mỡ hơn có nhiều khả năng bị ung thư vú hơn khi chụp quang tuyến vú, vì bộ ngực lớn làm cho chụp quang tuyến vú khó diễn giải hơn. Chính vì điều này mà những người có bộ ngực dày có thể được hưởng lợi từ các xét nghiệm hình ảnh bổ sung.
Tiến sĩ Norton cho biết: "Những người có bộ ngực dày nên chụp cả quang tuyến vú và siêu âm và có sự tư vấn của bác sĩ X quang chuyên về ung thư vú. Một số phụ nữ có thể cần chụp cộng hưởng từ hoặc một kỹ thuật mới gọi là chụp nhũ ảnh có cản quang."
Nguy cơ ung thư của một người thường được xác định bởi nhiều yếu tố. Hiểu rõ hơn về rủi ro mà một trong những yếu tố này mang lại sẽ giúp các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết kế sàng lọc ung thư cá nhân hóa tốt hơn.
Román cho biết: "Những người có nguy cơ thấp - không mắc bệnh vú lành tính, mô vú béo và không có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú - có thể được đề nghị sàng lọc bằng chụp nhũ ảnh tiêu chuẩn ba hoặc bốn năm một lần thay vì hai năm". Trong khi đó, "những người có nguy cơ cao có mật độ chụp nhũ ảnh cao, tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú cấp độ một hoặc bệnh vú lành tính có thể được đề nghị xét nghiệm sàng lọc mới bằng chụp nhũ ảnh hoặc thậm chí là chụp cộng hưởng từ (MRI) hàng năm."
Nguy cơ ung thư của một người thường được xác định bởi nhiều yếu tố.
Thay đổi lối sống để giảm nguy cơ mắc ung thư vú
Ung thư vú là một bệnh do nhiều yếu tố, nghĩa là cả yếu tố di truyền và lối sống đều ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh. Và việc có một yếu tố rủi ro hoặc nhiều yếu tố rủi ro không có nghĩa là bạn sẽ mắc bệnh.
Hai yếu tố rủi ro chính liên quan đến ung thư vú là phụ nữ và tuổi tác. Các yếu tố rủi ro không thể tránh khỏi khác bao gồm: đột biến gen (bao gồm gen BRCA 1 và BRCA 2), tiền sử sinh sản và tiền sử cá nhân hoặc gia đình có người ruột thịt mắc bệnh ung thư vú.
Tuy nhiên, các yếu tố về lối sống là những yếu tố rủi ro có thể thay đổi được và theo Tiến sĩ Norton, điều cực kỳ quan trọng là phải chú ý đến các yếu tố mà bạn có thể kiểm soát. Những yếu tố rủi ro đó bao gồm: không hoạt động thể chất, béo phì, sử dụng hormone trong một thời gian dài và uống rượu.
Nếu không chắc chắn về nguy cơ ung thư vú tổng thể của mình, bạn có thể nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của mình hoặc có thể truy cập công cụ Đánh giá rủi ro ung thư vú của Viện Ung thư Quốc gia , sử dụng tiền sử y tế, sinh sản và gia đình của một người để ước tính nguy cơ ung thư vú.
Ung thư vú, nhận biết sớm để chữa lành
Theo ThS.BS Trịnh Thế Cường, khoa Hóa trị liệu, Bệnh viện E Trung ương: Khám định kỳ, sàng lọc phát hiện sớm ung thư là điều rất quan trọng. Ung thư phát triển từ từ như vết dầu loang. Khi ung thư mới hình thành, giống như hiện tượng tràn dầu mới xuất hiện, nó chỉ xuất ảnh hưởng đến một vùng nhỏ, những loài sinh vật ở hồ vẫn sống được. Khi vết dầu này loang càng ngày càng rộng gây ô nhiễm môi trường, các loài cá không lấy được oxy và chết.
Ung thư khi còn giai đoạn sớm hầu như không gây triệu chứng, chưa ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên khi nó to lên, chèn ép các tổ chức xung quanh, di căn đến các vị trị khác gây triệu chứng thì đã ở giai đoạn không sớm. Vì vậy, sàng lọc sớm ung thư từ khi không có triệu chứng theo khuyến cáo giúp phát hiện sớm ung thư để được điều trị sớm và đúng cách mang lại hiệu quả cao.
|
Theo suckhoedoisong.vn