Hơn 4000 thôn bản chưa có cô đỡ

Ông Đinh Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế cho biết, hiện nay cả nước có gần 2.700 cô đỡ thôn bản ở 27 tỉnh.

Thông tin hoạt động mạng lưới cô đỡ thôn bản cho thấy hiện nay có 3726 xã thì số xã có đẻ tại nhà là 1386 (chiếm 37,2%). Cả nước có 12.939 thôn bản vùng địa bàn khó khăn thì Thừa Thiên Huế là tỉnh ít nhất với 27 thôn bản, Sơn La nhiều nhất với 1708 thôn bản. Số thôn bản cần có cô đỡ thôn bản là 7.221 nhưng hiện mới chỉ có 2.632 xã có cô đỡ thôn bản. Vẫn còn 4.639 xã chưa có đội ngũ này.

Trên cả nước, tổng số cô đỡ thôn bản được đào tạo trên 6 tháng là 2.632 nhưng chỉ có 1.702 cô đỡ thôn ban được đào tạo đang hoạt động (chiếm 64,7%) trong đó ít nhất là Phú Yên (3 người) và nhiều nhất là Điện Biên (203 người).

Số cô đỡ thôn bản đang được hưởng phụ cấp của nhân viên y tế thôn bản là 1.142 người (chiếm 67%) trong đó tỉnh ít nhất là Phú Yên, nhiều nhất là Nghệ An và Điện Biên.

Trải qua 30 năm hình thành và phát triển, đội ngũ này đã có rất nhiều đóng góp quan trọng trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện thành công mục tiêu thiên niên kỷ.

Thiếu trầm trọng đội ngũ cô đỡ thôn bản - Ảnh 2.

Nhu cầu về đội ngũ cô đỡ thôn bản là rất lớn.

Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế), 30 năm trước, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt Nam vào khoảng 233/100.000 trẻ đẻ sống, cao gấp 4 lần thời điểm hiện tại. Tử vong mẹ tại các vùng sâu, vùng xa thậm chí còn cao hơn rất nhiều. Giai đoạn 2000 – 2001, tử vong mẹ đã giảm xuống ở mức 165/100.000 trẻ đẻ sống, tuy nhiên vẫn còn có sự khác biệt đáng kể về tình trạng sức khỏe và tử vong giữa các vùng địa lý, kinh tế - xã hội và giữa các nhóm dân tộc. Đặc biệt, tỷ lệ đẻ tại nhà không có cán bộ y tế đỡ đẻ trong giai đoạn này còn rất cao ở khu vực miền núi, dao động trong khoảng 50-58%.

Việc không khám thai, đẻ tại nhà không được hỗ trợ của cán bộ y tế là nguyên nhân quan trọng khiến tình trạng tử vong mẹ còn cao ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em và thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền về sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Ngoài ra, nghèo đói, giao thông khó khăn, thiếu thông tin liên lạc, tiếp cận dịch vụ y tế còn hạn chế ở những vùng xa xôi, hẻo lánh… là những yếu tố cản trở đồng bào dân tộc sinh con tại cơ sở y tế. Đặc biệt, sự khác biệt về yếu tố văn hóa như ngôn ngữ, phong tục tập quán có liên quan đến việc mang thai, sinh con… cũng làm giảm khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân ở vùng núi cao.

Bên cạnh đó, nhân lực y tế, trong đó đặc biệt là nhân lực làm công tác chăm sóc thai sản và sơ sinh ở vùng miền núi luôn thiếu trầm trọng. Cán bộ y tế xã rất khó để thực hiện những dịch vụ làm mẹ an toàn, chăm sóc trẻ sơ sinh tại các thôn bản vùng núi cao và xa xôi hẻo lánh do điều kiện đi lại khó khăn, thiếu kinh phí, trang thiết bị.

Trên thực tế, cán bộ y tế là người dân tộc Kinh khó có khả năng hòa nhập, tiếp cận với đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là những dân tộc có nhiều nét văn hóa đặc thù như H'mông, Giẻ Triêng, Raglai…. Đồng thời, các chế độ, chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại vùng khó khăn còn nhiều bất cập…

Đào tạo cô đỡ thôn bản cho vùng khó khăn

Nhận thức được những khó khăn trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Bộ Y tế đã có chủ trương đào tạo các cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số cho các vùng khó khăn.

Từ năm 1992, Bệnh viện Từ Dũ tổ chức đào tạo thí điểm tại Lâm Đồng và Ninh Thuận với 37 học viên đầu tiên thuộc các dân tộc Nùng, Mơ Nông, Tày, Khơ me, S'tiêng… Giai đoạn 1999-2001 đã có 4 khóa đào tạo cho huyện Bù Đăng và Lộc Ninh (tỉnh Bình Phước) với tổng số học viên là 113 người. Từ những thành công bước đầu, Bệnh viện Từ Dũ đã phát triển thành "Chương trình đào tạo 500 cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số".

Các học viên là những phụ nữ dân tộc có trình độ học vấn thấp, có những người mới chỉ đọc, viết được tiếng Kinh, được bệnh viện phối hợp với Hội Phụ nữ và Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản các tỉnh chọn lọc ở các thôn bản. Các học viên được đào tạo 6 tháng tại bệnh viện về chăm sóc trước, trong và sau sinh cho bà mẹ, trẻ em sơ sinh, tư vấn kế hoạch hóa gia đình, giáo dục truyền thông về chăm sóc sức khỏe ban đầu, sức khỏe phụ nữ, trẻ em… Sau đó, họ trở về công tác tại cộng đồng với sự giám sát chuyên môn của các bác sỹ Bệnh viện Từ Dũ.

Thiếu trầm trọng đội ngũ cô đỡ thôn bản - Ảnh 3.

Bộ Y tế đã có chủ trương đào tạo các cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số cho các vùng khó khăn.

Chương trình đã đào tạo được tổng số 720 cô đỡ thôn bản. Sau khi kết thúc đào tạo, các cô đỡ đều quay lại cộng đồng và được bệnh viện hỗ trợ về vật chất, khuyến khích bằng kinh phí dựa trên các kết quả cung cấp dịch vụ cho phụ nữ và người dân trong cộng đồng của họ.

Từ năm 2008, với sự tài trợ của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em đã phối hợp với Bệnh viện Từ Dũ thử nghiệm "Mô hình cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số" tại 3 tỉnh Hà Giang, Ninh Thuận và Kon Tum. Các cô đỡ thôn bản được chọn từ các phụ nữ trẻ người dân tộc thiểu số và hầu hết có trình độ văn hóa từ lớp 5 trở lên; được đào tạo những kỹ năng cơ bản về chăm sóc sản khoa và xử lý ban đầu các tai biến sản khoa, sơ sinh.

Đối với các học viên chưa phải là nhân viên y tế thôn bản, chương trình đào tạo kéo dài 18 tháng bao gồm: 9 tháng học lý thuyết, 3 tháng học chương trình y tế thôn bản và 6 tháng thực hành tại cộng đồng với sự giám sát chặt chẽ của Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Với những học viên là nhân viên y tế thôn bản, thời gian đào tạo là 15 tháng.

Qua đó, 63 cô đỡ thôn bản được đào tạo theo chương trình trên đã trở về hoạt động tại các thôn bản của 3 tỉnh với sự giám sát thường xuyên của hệ thống y tế địa phương, đặc biệt là trạm y tế xã và được báo cáo, đánh giá trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, sức khỏe bà mẹ và trẻ em của các tỉnh.

Công việc vất vả là thế, tuy nhiên bản thân cô và một số chị em tại địa phương khác không có phương tiện đi lại, chủ yếu đi bộ. Bên cạnh đó, thu nhập từ công việc này không cao, nên cô đỡ phải bố trí sáng đi làm nương rẫy, trưa tranh thủ đi vận động tuyên truyền. Hôm nào người dân gọi đi đỡ hoặc giúp họ chuyển tuyến là phải bỏ công việc nhà.

Để khích lệ tinh thần cũng như nâng cao trách nhiệm của đội ngũ các cô đỡ thôn bản trong việc tiếp tục gắn bó với công việc này, các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị Y tế cần có những chính sách trực tiếp liên quan đến chế độ đãi ngộ của đội ngũ y tá thôn bản và cô đỡ thôn bản tại các địa bàn miền núi.

Cụ thể, ngành Y tế cần phối hợp các bộ, ngành, chính quyền và cấp ủy các địa phương nghiên cứu, đề xuất các chính sách để duy trì và phát triển mạng lưới cô đỡ thôn bản tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đảm bảo thực hiện tốt chế độ đãi ngộ để cô đỡ thôn bản yên tâm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, các cơ sở Y tế cần quan tâm đến việc đào tạo cô đỡ thôn bản cho các thôn, buôn khó khăn; gia tăng chỉ tiêu cô đỡ thôn bản để giảm tải công việc cho các cô đỡ hiện đang làm việc.

Theo suckhoedoisong.vn