Thông tin ca sĩ Coco Lee qua đời vì trầm cảm khiến thế giới bàng hoàng. Theo lời kể của người thân trong gia đình, Coco Lee mắc chứng trầm cảm cách đây vài năm, sau thời gian dài chống chọi, gần đây tình trạng của cô có chiều hướng xấu đi và cuối cùng cô đã không thể thoát khỏi những rắc rối của căn bệnh.
Ca sĩ Coco Lee qua đời ở tuổi 48 vì tự sát
Nhiều người thắc mắc tại sao Coco Lee luôn tươi cười và vui vẻ lại bị trầm cảm?
Thực ra đây là hiểu lầm của nhiều người về bệnh trầm cảm, nhiều người luôn tỏ lạc quan vui vẻ nhưng thực chất lại là bệnh nhân trầm cảm nặng.
Đây là biểu hiện của chứng trầm cảm cười. Làm thế nào để nhận ra triệu chứng này và nên đối mặt với nó như thế nào?
Xiaolin, một cô gái trẻ 17 tuổi, thường mỉm cười mỗi khi nhìn thấy mọi người, nhưng điều ít ai biết cô bé có rất nhiều vết thương lòng.
Chia sẻ với bác sĩ, cô nói đã cố gắng mỉm cười và giả vờ vui vẻ vào ban ngày, nhưng vào ban đêm khi ở một mình, cô bé cảm thấy rất khó chịu. Mỗi đêm Xiaolin đều lo lắng về nhiều thứ khác nhau, sợ rằng mình sẽ không đáp ứng được kỳ vọng của cha mẹ trong học tập, và sợ rằng giáo viên và bạn học sẽ không thích mình. Bị bủa vây bởi đủ loại cảm xúc tiêu cực, Xiao Lin chỉ có thể bình tĩnh lại khi tự cào cấu mình, cô nhiều lần đứng trên mái nhà và muốn nhảy xuống.
Những bệnh nhân như Xiaolin được gọi là trầm cảm cười. So với bệnh nhân trầm cảm thông thường, bệnh nhân trầm cảm cười có kỹ năng xã hội tốt hơn, họ quen cười để che giấu sự tức giận, lo lắng và buồn bã.
So với những bệnh nhân trầm cảm bộc lộ cảm xúc tiêu cực, những bệnh nhân trầm cảm cười giấu kín hơn, thậm chí có lúc họ còn cư xử tự tin, vui vẻ, hoạt bát hơn người bình thường, không chỉ lừa dối những người xung quanh mà ngay cả chính bản thân họ.
Ảnh minh họa.
Ai dễ có nguy cơ cao bị trầm cảm cười?
Theo dữ liệu do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tiết lộ, hơn 350 triệu người trên toàn thế giới mắc chứng trầm cảm và số bệnh nhân đã tăng khoảng 18% trong thập kỷ qua.
Trầm cảm là một vấn đề sức khỏe đặc biệt chưa được nhận thức và hiểu rõ, chủ yếu biểu hiện ở tâm lý và hành vi, nó vô hình nhưng có thể mang đến sự tra tấn tinh thần chí mạng cho cơ thể con người. Sự thờ ơ của người xung quanh với bệnh trầm cảm đã mang đến những nỗi đau về tinh thần và thể xác cho người bệnh, thậm chí gây ra nhiều bi kịch.
Theo số liệu ước tính được công bố bởi The Lancet , 5% người trưởng thành trên toàn thế giới được chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm mỗi năm. Ai là nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh trầm cảm?
Đối với những người có tiền sử trầm cảm di truyền, nếu cha hoặc mẹ bị trầm cảm thì tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm ở con cái họ là khoảng 25%.
Nghiên cứu trên tạp chí The Lancet-Psychiatry cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ cao gấp đôi nam giới và các giai đoạn đặc biệt của phụ nữ như mang thai, sảy thai, sau sinh và mãn kinh là những giai đoạn có tỷ lệ trầm cảm cao.
Tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở thanh thiếu niên trên toàn thế giới là 1,3% và nó đang tăng lên hàng năm.
Do yếu tố môi trường xã hội, những người phải chịu áp lực cao, cạnh tranh khốc liệt cũng là những người có tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm cao.
Ảnh minh họa.
Những người đã phải chịu đựng những sự kiện tiêu cực và đau thương, những người từng trải qua chấn thương tâm lý và những sự kiện không may bất ngờ khi còn trẻ, chẳng hạn như cái chết của người thân, ly hôn, trường hợp khẩn cấp công cộng, thảm họa tự nhiên và nhân tạo,…
Những người lạm dụng và phụ thuộc vào rượu và ma túy.
Người mắc bệnh hiểm nghèo.
70%-80% bệnh trầm cảm có thể được cải thiện hoặc phục hồi thông qua điều trị. Thẳng thắn đối mặt với căn bệnh và tích cực tìm cách điều trị là cách tốt nhất để bệnh nhân trầm cảm tự cứu mình.
Cách nhận biết có dễ bị trầm cảm hay không
Các triệu chứng ban đầu của bệnh trầm cảm chủ yếu thể hiện ở ba khía cạnh: cảm xúc, nhận thức và trạng thái thể chất.
Triệu chứng cảm xúc: Không cảm nhận được niềm vui trong cuộc sống, làm việc gì cũng không có hứng thú, lâu ngày chìm trong lo lắng bồn chồn, không điều hòa được bản thân.
Triệu chứng thực thể: chán ăn, mất ngủ và hay mơ, toàn thân khó chịu, luôn nghi ngờ có bệnh, thường xuyên đến bệnh viện khám chữa bệnh nhưng không tìm ra bệnh thực thể.
Triệu chứng nhận thức: Suy giảm trí nhớ, phản ứng chậm chạp, không thể tập trung, làm việc vô tổ chức và thờ ơ với mọi thứ xung quanh.
Cách hợp tác điều trị sau chẩn đoán
Điều trị trầm cảm chủ yếu là điều trị bằng thuốc, kết hợp với tâm lý trị liệu, đây là phương pháp điều trị khoa học nhất trên thế giới hiện nay.
Bệnh nhân và người nhà cần ý thức rằng trầm cảm là bệnh có thời gian điều trị lâu dài, nguy cơ tái phát cao, trầm cảm một khi tái phát trên ba lần có thể phải dùng thuốc suốt đời mới kiểm soát được.
Vì vậy, trong điều trị trầm cảm không chỉ cần sự hợp tác tích cực, kiên trì điều trị của bệnh nhân mà còn cần sự hỗ trợ, động viên của người thân trong gia đình thì bệnh nhân mới thoát ra khỏi đám mây trầm cảm.
Thuốc điều trị trầm cảm
Thuốc điều trị trầm cảm được chia thành điều trị giai đoạn cấp tính và điều trị giai đoạn mãn tính.
Điều trị cấp tính
Giai đoạn đầu của trầm cảm là giai đoạn cấp tính. Trong thời gian điều trị này, sau khi uống thuốc 2-3 tháng thì tình trạng bệnh sẽ cải thiện, sau đó sẽ tiến hành điều trị củng cố khoảng nửa năm, bệnh nhân về cơ bản có thể trở lại sinh hoạt bình thường.
Điều trị giai đoạn mãn tính
Khi bệnh trầm cảm nặng hơn, tức là khi đã phát triển sang giai đoạn mãn tính thì thời gian uống thuốc sẽ tương đối dài, có những bệnh nhân nặng cần uống thuốc liên tục 2-3 năm mới có thể khống chế bệnh hiệu quả.
Bất kể ở giai đoạn cấp tính hay mãn tính, sau khi các triệu chứng trầm cảm được kiểm soát, bệnh nhân cần trải qua thời gian điều trị duy trì khoảng 5 năm. Trong giai đoạn này trạng thái cảm xúc của bệnh nhân cần được theo dõi bất cứ lúc nào và cần tích cực tìm kiếm vấn đề để ngăn ngừa tái phát.
Tâm lý trị liệu trầm cảm
Tâm lý trị liệu là một phương pháp quan trọng để kiểm soát trầm cảm và nó có tác dụng rõ rệt đối với bệnh nhân trầm cảm do sang chấn. Điều quan trọng nhất trong tâm lý trị liệu là xây dựng lại và sửa chữa các mối quan hệ, bao gồm xây dựng thái độ tích cực, mối quan hệ tốt giữa cha mẹ và con cái, gia đình và thay đổi những thói quen sống xấu. Những thay đổi của môi trường bên ngoài sẽ có tác dụng điều trị bổ trợ tốt đối với bệnh trầm cảm.
Trầm cảm là yếu tố nguy cơ cao dẫn đến tự sát, trước căn bệnh này, người bệnh nên chấp nhận thực tế, tự chăm sóc bản thân và tích cực hợp tác điều trị, đồng thời cần sự hỗ trợ của gia đình và xã hội.
Theo giadinhonline.vn