TS.BS Lâm Đức Tâm chia sẻ về tầm quan trọng của việc Trữ lạnh noãn trưởng thành tại Hội thảo Khoa học Ung bướu Cần Thơ lần thứ XII.
Theo BS Tâm, hiện nay, số lượng ung thư phụ khoa được phát hiện ngày càng tăng, đặc biệt là ở các bệnh nhân trẻ tuổi. Trong số những lo lắng của những người sống sót sau ung thư phụ khoa ở độ tuổi trẻ, vấn đề liên quan đến sinh sản đứng thứ hai chỉ sau nỗi sợ tái phát ung thư việc xin trứng. Tuy mang thai hộ và nhận con nuôi là những lựa chọn tiềm năng cho phụ nữ bị mất khả năng sinh sản, nhưng nhiều phụ nữ vẫn muốn là mẹ, được tự mình sinh ra con cái.
Tại Hội thảo, TS.BS Lâm Đức Tâm đã đưa ra các dẫn chứng cho thấy việc trữ lạnh noãn mii bằng phương pháp Vitrification đã được chứng minh có hiệu quả tương đương với noãn tươi khi đánh giá kết cục của thụ tinh trong ống nghiệm. Trữ lạnh noãn trưởng thành mii là kỹ thuật tốt cho phụ nữ trẻ dưới 35 tuổi và nếu trữ lạnh noãn trưởng thành mii đủ số lượng noãn bào. Tỷ lệ có thai/ mỗi lần chuyển = 39%; 1 noãn trưởng thành mii = 6,4% cơ may có một đứa bé.
Dựa trên dữ liệu có sẵn, ủy ban thực hành y học sinh sản đã đề xuất bảo tồn buồng trứng cho phụ nữ có nguy cơ cao suy buồng trứng và không phù hợp để trữ lạnh phôi thai.
Trữ lạnh noãn non + ivm là kỹ thuật noãn được cho hút ở giai đoạn chưa trưởng thành (gv) được nuôi cấy trong các môi trường chuyên biệt cho đến khi trưởng thành (mii) không cần phải kích thích buồng trứng hoặc kích thích với liều thấp trong thời gian ngắn.
Trữ lạnh noãn non + ivm là kỹ thuật được khuyến cáo là lựa chọn hàng đầu trong bảo tồn khả năng sinh sản của nữ giới.
Ưu điểm của phương pháp này có thể áp dụng với phụ nữ chưa có gia đình, những người có chồng chỉ định kích thích buồng trứng. Về mặt hạn chế: có đông lạnh noãn khó; chỉ tiến hành được ở nơi có htss (ivm); trì hoãn thời gian bắt đầu điều trị ung thư.
Tuy nhiên, bảo tồn khả năng sinh sản gặp tranh cãi do nguy cơ tái phát ung thư khi giữ lại và cấy ghép mô buồng trứng nhưng một số nghiên cứu đã mang lại những kết quả và khuyến nghị quan trọng.
- Năm 2011 với 39 bệnh nhân ung thư buồng trứng (80% trong số đó ở giai đoạn 1 và 52% là ung thư tế bào mầm). Sau khi điều trị phẫu thuật cơ bản và hóa trị, 98% bệnh nhân vẫn duy trì chu kỳ kinh nguyệt đều đặn và 20% trong số này còn có khả năng mang thai tự nhiên và sinh con một cách khỏe mạnh, chỉ có 8% trong số đó tái phát ung thư.
- Năm 2005 một nghiên cứu tổng quan chỉ ra rằng việc điều trị bảo tồn khả năng sinh sản ở nhóm bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn 1, u có khả năng ác tính thấp, u ác tế bào mầm buồng trứng là một phương án khả thi và hiệu quả.
TS.BS Lâm Đức Tâm đã mang đến cho người dân một góc nhìn chi tiết về các phương pháp sinh sản và bảo tồn sinh sản ngày nay, đặc biệt là phương pháp trữ lạnh noãn trưởng thành.
Theo giadinhonline.vn