Dai Xiao Lei và bức ảnh của cậu con trai bị bắt cóc khi chỉ hơn 1 tuổi

Hàng ngàn đứa trẻ bị bắt cóc

Khi Dai Xiao Lei đến căn hộ ở Bắc Kinh cùng chồng và con trai, sau chuyến bay dài từ Canada trở về, mẹ chồng và chị dâu của cô đã đợi sẵn bên trong.

Họ muốn đưa cậu con trai 16 tháng tuổi của Dai về nhà nội ở Gaoyang, cách đó vài giờ lái xe. Người chồng dường như không ngạc nhiên và nói với cô rằng anh ấy chắc đã quên đề cập đến việc này.

Dai kể: "Chúng tôi chưa bao giờ thảo luận về điều này và không có thỏa thuận trước nào cả. Đây không phải là điều mà tôi đã đồng ý. Nhưng họ không quan tâm".

Dai tìm cách từ chối, nhốt con trai trong phòng ngủ của mình. Tuy nhiên, cô nói, người chồng trước đây đã từng bạo hành thể xác và cô sợ. Không có bạn bè, gia đình hoặc hàng xóm xung quanh có thể giúp đỡ, vài giờ sau cô phải nhượng bộ.

Trong những tháng tiếp theo, Dai cho biết chồng cũ của cô đã từ chối những yêu cầu được gặp con trai của cô. Anh ta đệ đơn ly hôn, cho rằng cô "vô trách nhiệm" và "không có thời gian chăm sóc con trai do công việc".

Dai, một công dân Canada, đã đến gặp cảnh sát Bắc Kinh và lãnh sự quán Canada, nhưng các nhà chức trách gọi đó là vấn đề riêng tư của gia đình và họ không thể làm gì được.

Sau đó, giáng thêm một đòn tồi tệ nhất: tòa án ly hôn trao cho chồng cũ của cô quyền nuôi con trai của họ, phán quyết ghi rằng đó là điều tốt nhất cho "sự trưởng thành về thể chất và tinh thần" của cậu bé khi tiếp tục ở lại môi trường sống hiện có.

Theo các chuyên gia pháp lý và các nhà hoạt động bảo vệ bà mẹ và trẻ em, ở Trung Quốc, các tòa án thường trao quyền giám hộ cho bất kỳ ai hiện đang nuôi đứa trẻ. Dai đã dành 5 năm qua để kháng cáo phán quyết và đấu tranh đòi quyền thăm con.

Câu chuyện của Dai không phải duy nhất. Theo báo cáo của Zhang Jing - Phó giám đốc một công ty luật ở Bắc Kinh và là giáo sư tại Đại học Khoa học Chính trị và Luật Trung Quốc, gần 80.000 trẻ em ở Trung Quốc đã bị bắt cóc và giấu đi trong các vụ ly hôn vào năm 2019. Các vụ bắt cóc hầu hết liên quan đến những cậu con trai dưới 6 tuổi.

Để đạt được ước tính trên, Zhang Jing và nhóm nghiên cứu của cô đã phân tích 749 vụ kiện liên quan đến quyền nuôi con và quyền thăm nom từ cơ sở dữ liệu pháp lý quốc gia, kéo dài từ năm 2007 đến năm 2020 - sau đó áp dụng tỷ lệ các vụ án "bắt cóc con" cho số vụ ly hôn được đăng ký vào năm 2019.

Mặc dù ước tính 80.000 dựa trên số liệu ly hôn năm 2019, các chuyên gia pháp lý cho biết nó phản ánh xu hướng nhất quán hàng năm - và con số thực tế có thể cao hơn nhiều, vì nhiều trường hợp có thể không được công khai hoặc giải quyết ngoài tòa án.

Một luật mới nhằm chấm dứt tình trạng này: vào tháng 10/2020, cơ quan lập pháp của Trung Quốc đã thông qua một sửa đổi đối với luật bảo vệ trẻ em bằng hàng chục điều khoản mới - một trong số đó tuyên bố việc các bậc cha mẹ “bắt cóc và giấu trẻ” là bất hợp pháp trong việc giành quyền nuôi con.

Các sửa đổi, có hiệu lực vào ngày 1/6/2021, được một số người ca ngợi là một bước quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em và bà mẹ. Tuy nhiên các chuyên gia về luật gia đình cho biết, những quy định lỏng lẻo trong nhiều năm và cách tiếp cận thiếu linh hoạt của chính quyền Trung Quốc đã làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu một luật mới sẽ thay đổi thực tế.

Khoảng trống trong luật

Mặc dù chi tiết và hoàn cảnh của các vụ bắt cóc khác nhau, nhưng kết quả thường giống nhau. Theo các nhà hoạt động như Dai và Zhang Jing, những người đã từng trải qua hoặc làm việc với những trường hợp như vậy, kẻ bắt cóc di chuyển và giấu những đứa trẻ, thường là nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ hoặc người thân trong gia đình.

Người bảo hộ còn lại, thường là mẹ, không thể gặp lại con của họ vì thậm chí không biết con mình đang ở đâu. Trong một số trường hợp, kẻ bắt cóc tiếp tục giấu đứa trẻ trong một thời gian dài sau khi giành được quyền nuôi con từ tòa án.

Các cuộc chiến pháp lý có thể vô ích - trừ khi đứa trẻ bị ngược đãi hoặc gặp nguy hiểm, nếu không sẽ không thể giành lại quyền nuôi con. Cha mẹ có thể được cấp quyền thăm nom - nhưng những quyền này cũng khó thực thi. Thông thường, không có hậu quả pháp lý nào cho những kẻ bắt cóc.

Chen Haiyi - Chánh án về vụ việc gia đình và đối tượng chưa thành niên của Tòa án Nhân dân Trung cấp Quảng Châu ở tỉnh Quảng Đông, cho biết trong một báo cáo năm 2019 được Tân Hoa Xã trích dẫn: “Trong ít nhất một nửa các tranh chấp ly hôn liên quan đến quyền nuôi con, cha mẹ giấu con cái vì nhiều lý do khác nhau”.

Luật pháp cua Trung Quốc để lại nhiều kẽ hở về quyền nuôi dạy con sau khi ly hôn

Cốt lõi của vấn đề là hệ thống luật pháp của Trung Quốc, mang xu hướng có lợi cho kẻ bắt cóc và thiếu hỗ trợ cho người bị hại.

Ở Trung Quốc, quyền nuôi con chung là rất hiếm - suy nghĩ phổ biến là "sau khi gia đình tan vỡ, con cái nên ở với cha hoặc mẹ hơn là với cả cha và mẹ".

Theo báo cáo của Zhang Jing, những bà mẹ sinh con khi chưa lập gia đình thậm chí còn dễ bị tổn thương hơn vì họ không được luật hôn nhân bảo vệ.

Wang, một bà mẹ sống ở Thiên Tân, đã không kết hôn khi cô sinh con gái. Cặp đôi ly thân vài tháng sau đó vào năm 2016. Cô và đứa con 6 tháng tuổi ở tại nhà của gia đình Wang hai tháng sau khi ly thân. Một ngày nọ, giữa đường phố đông đúc, “chồng” cũ của cô và một nhóm người khác xuất hiện, đẩy cô xuống đất và bắt cóc con gái cô.

Đó là lần cuối cùng Wang nhìn thấy con gái mình. Cô ấy ngay lập tức đến gặp cảnh sát, họ đã giam giữ và phạt cha đứa trẻ vì hành vi tấn công, nhưng không làm gì về vụ bắt cóc. Cô kể: "Họ nói với tôi rằng vì đứa trẻ ở với cha ruột, đây không phải là một hành vi phạm tội”.

Việc bắt cóc con phổ biến đến mức nó thường được coi là điều hợp lý. Wang chia sẻ: "Nếu bạn muốn quyền nuôi con, bạn phải dựa vào chính mình", và nói thêm rằng nếu bạn yêu cầu một công ty luật tư vấn về việc giành quyền nuôi con, các luật sư rất có thể sẽ khuyên bạn hãy “bắt cóc” con mình.

Wang đã dành nhiều năm để kháng cáo tòa án về quyền nuôi con và quyền thăm nom, nhưng tòa vẫn giữ nguyên phán quyết về quyền nuôi con với lý do “không thay đổi môi trường sống”.

Động cơ và niềm tin văn hóa

Nhóm của Zhang Jing phát hiện ra rằng trong số các trường hợp họ kiểm tra liên quan đến bắt cóc trẻ em, khoảng 63% kẻ bắt cóc là nam giới và gần 2/3 số nạn nhân bị bắt cóc là trẻ em trai.

Các nhà hoạt động cho biết, có một vài lý do có thể giải thích cho điều này - một trong những lý do chính là quan niệm truyền thống về thừa kế và huyết thống.

Báo cáo của Zhang ghi nhận, nhiều gia đình vẫn ưu tiên con trai và khi tài sản tư nhân đã tích lũy ở Trung Quốc trong những thập niên gần đây tăng mạnh, sự chú trọng của các gia đình vào người thừa kế nam và "thừa kế huyết thống" cũng tăng lên.

Đồng thời, phụ nữ sinh ít con hơn. Số trẻ sơ sinh đăng ký với chính phủ đã giảm gần 15% vào năm 2020 so với năm 2019 và tỷ lệ sinh vào năm 2020 là mức thấp nhất được ghi nhận kể từ khi đất nước được thành lập vào năm 1949.

Báo cáo cho biết: “nhu cầu được truyền lại huyết thống trong gia đình” là động cơ chính trong nhiều trường hợp cha mẹ bắt cóc trẻ em. Thế hệ lớn tuổi đặc biệt coi trọng việc duy trì dòng máu, từ đó tăng cường việc đấu tranh giành quyền nuôi con".

Bạo hành gia đình cũng là một yếu tố phổ biến trong các trường hợp cha mẹ bắt cóc trẻ em. Trong số các trường hợp bắt cóc mà Zhang Jing kiểm tra, gần 39% viện dẫn lý do ly hôn là do bạo lực gia đình. Trong những trường hợp này, những kẻ lạm dụng có thể xem con cái như một cách để giành quyền lực và kiểm soát nạn nhân.

Đứa trẻ trở thành nạn nhân của cuộc tranh giành giữa cha mẹ vì quan niệm "huyết thống"

Báo cáo còn cho biết, phần lớn các vụ bắt cóc xảy ra ở những nơi có tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng như Thượng Hải, Bắc Kinh hoặc Quảng Đông. Ở những trung tâm kinh tế này, các cặp vợ chồng có xu hướng độc lập hơn về tài chính và phụ nữ có nhiều khả năng có thu nhập riêng - nghĩa là họ có nhiều khả năng đệ đơn ly hôn và tranh giành quyền nuôi con.

Theo báo cáo, một lý do khác khiến hiện tượng này lan rộng có thể là do có quá nhiều lao động nhập cư trên khắp đất nước - ước tính gần 300 triệu người. Những người này chuyển từ nông thôn đến các thành phố lớn để làm việc. Điều này khiến kẻ bắt cóc dễ dàng mang theo con bỏ đi, thường là trở về địa phương nơi họ còn người nhà.

Cuối cùng, niềm tin văn hóa lâu đời rằng mâu thuẫn gia đình là việc riêng của họ khiến người ngoài cuộc - bao gồm cả chính quyền - ngại can thiệp. Wang nói: “Nếu hai người lạ đánh nhau, cơ quan chức năng sẽ xử lý theo quy định của pháp luật. Nhưng nếu là người chồng đánh vợ thì hình phạt sẽ nhẹ, thậm chí không phạt”.

Tất cả những yếu tố này đã tạo ra một tình huống bất khả thi cho những phụ nữ không được hỗ trợ, bảo vệ về mặt pháp lý hoặc về cách giành lại quyền nuôi con.

Theo những sửa đổi mới của luật gia đình, sẽ có hiệu lực chỉ trong vài tuần nữa, cha mẹ "không được phép tranh giành quyền nuôi con bằng cách bắt cóc hoặc giấu con dưới tuổi vị thành niên." Những người vi phạm các điều khoản có thể "chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật", hoặc đối mặt với các hình phạt khác theo luật.

Đối với nhiều nhà hoạt động và các bà mẹ, thay đổi đến quá trễ. Sau khi mất quyền nuôi con trai, Dai đã đồng sáng lập một tổ chức mang tên Dải băng tím của Tình mẹ để kết nối và giúp đỡ những người khác trong hoàn cảnh này, cũng như vận động thay đổi thể chế để bảo vệ cha mẹ và con cái tốt hơn trước nạn bắt cóc.

Tuy nhiên, Dai cảnh báo rằng "luật chỉ là luật khi nó có thể được thực thi." Và đối với những bà mẹ mất quyền nuôi con hoặc quyền thăm nom con cái, luật mới khó thay đổi được điều mà họ đang trải qua.

Theo phunuonline