Khi nói đến tính tự giác của trẻ, nhiều bậc cha mẹ phàn nàn, nếu không thường xuyên nhắc nhở, chắc chắn trẻ sẽ suốt ngày nghịch điện thoại, không bao giờ chủ động làm bài tập về nhà. Thậm chí phải nhắc nhở con việc đi ngủ đúng giờ và thức dậy sớm hơn.
Đúng là nhiều phụ huynh đang lo lắng một cách mù quáng. Không dễ để yêu cầu trẻ nhỏ thực hiện kỷ luật tự giác trong thời gian ngắn. Vì tuổi của các con là không thể ngồi yên, thích trì hoãn mọi việc, thích chạy nhảy hơn là học tập, đó chỉ là những biểu hiện bình thường trong quá trình trưởng thành của các con. Tuy nhiên, khi trẻ lớn lên, tính kỷ luật tự giác là khả năng cốt lõi cần được trau dồi.
Ảnh minh họa.
Làm thế nào để rèn luyện tính tự giác cho trẻ?
Hiệu ứng desi
Phần thưởng vật chất không phù hợp thường giết chết động lực của trẻ.
Năm 1971, giáo sư tâm lý học Edward Deci đã tiến hành một thí nghiệm như vậy. Ông yêu cầu học sinh giải một bộ câu đố trong phòng thí nghiệm và chia ngẫu nhiên thành hai nhóm. Học sinh trong nhóm thử nghiệm sẽ nhận được phần thưởng trị giá là 1 USD khi họ hoàn thành mỗi câu hỏi, trong khi nhóm học sinh bình thường sẽ không được nhận phần thưởng cho dù họ có hoàn thành câu hỏi. Các nhân viên nhận thấy rằng trong giờ giải lao, những người trong nhóm bình thường tiếp tục giải quyết vấn đề nhiều hơn so với nhóm thử nghiệm.
Đối với một đứa trẻ, việc đưa ra những phần thưởng vật chất một cách mù quáng, có thể sẽ khiến đứa trẻ hoàn thành mục tiêu chỉ vì những phần thưởng vật chất, chứ chúng không có niềm vui khi giải quyết vấn đề (động lực bên trong).
Có một ông lão thương lượng với những đứa trẻ chơi bóng, ông già cho bọn trẻ hai nhân dân tệ mỗi ngày để chúng tham gia chơi bóng cho ông. Tuy nhiên về sau, số tiền ông lão cho càng ngày càng ít, cuối cùng ông không cho dù chỉ một xu. Sau đó, ông muốn bọn trẻ chơi bóng miễn phí cho mình, khi biết chuyện, bọn trẻ rất tức giận và không bao giờ đến nữa.
Nếu bạn muốn con mình thực sự làm một việc gì đó bằng sự chân thành, thì bạn phải bắt đầu bằng cách kích thích “động lực bên trong” của con và thay đổi từ “bạn muốn con làm điều đó” thành “Con muốn làm điều đó”.
Hiệu ứng quá giới hạn
Việc giảng dạy bằng lời nói cũng cần có giới hạn, đừng quá ít cũng đừng quá nhiều.
“Mẹ đã nói với con 100 lần rằng hãy cất đồ chơi của con sau khi chơi xong!”
“Sao lúc nào con cũng chậm chạp thế? Nhanh lên!”.
“Mẹ đã nói bao nhiêu lần rồi, sao con vẫn bất cẩn như vậy?”.
Trên thực tế, rất có thể bạn đang bị “mắc kẹt” bởi hiệu ứng vượt quá giới hạn. Đây là hiện tượng của người nói lặp đi lặp lại những câu nói trong một thời gian rất dài. Vì thế khiến cho người nghe mất sự kiên nhẫn hoặc có thể nổi loạn cực độ do bị kích thích quá mức.
Nhà văn vĩ đại Mark Twain đã đích thân trải qua “tình thế tiến thoái lưỡng nan” này: Một ngày nọ, ông ấy nghe bài phát biểu của mục sư trong nhà thờ. Lúc đầu, ông cảm thấy những gì mục sư nói thật cảm động nên đã sẵn sàng quyên góp thêm tiền, nhưng 10 phút sau, mục sư vẫn nói tiếp, ông trở nên mất kiên nhẫn và chỉ quyên góp một ít tiền lẻ. Thêm 10 phút nữa, mục sư vẫn chưa nói xong nên quyết định không quyên góp một xu. Cuối cùng, khi mục sư kết thúc bài phát biểu của mình và bắt đầu kêu gọi sự quyên góp từ khán giả, Mark Twain đã tức giận đến mức không những từ chối quyên góp tiền mà còn lấy đi 2 nhân dân tệ trên đĩa.
Người lớn thường nghĩ rằng họ giao tiếp với chúng ta bằng cách nói rất nhiều, thực ra là họ đang nói chuyện vui vẻ còn chúng ta thường giả vờ lắng nghe. Họ không quan tâm chúng ta có nghe hay không, miễn là họ nói ra thì quên đi.
Bạn thấy chúng ta đang bị họ nhấn chìm. Người lớn nói nhiều như vậy, tại sao lại không hiểu rằng nói nhiều cũng khó tiêu?
Trong giáo dục, một câu nói trăm lần sẽ không thành chân lý và một câu chân lý nói trăm lần có thể thành vô nghĩa. Vì vậy, không nên rao giảng quá nhiều, và khi phê bình cũng không nên quá dài.
Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng trẻ em có xu hướng lắng nghe những lời chỉ trích trong vài phút đầu tiên. Nhưng thời gian trôi qua, trẻ sẽ dần rơi vào trạng thái “tai trái vào tai phải ra”.
Điều này là do trẻ vô thức kích hoạt “chức năng che chắn tâm lý” để ngăn não xử lý quá nhiều cảm xúc và thông tin tiêu cực.
Việc rao giảng như vậy không có hiệu quả, không có chỗ cho tính tự giác, tự quản của trẻ, làm sao chúng có thể bắt đầu nói về tính kỷ luật tự giác?
Hiệu ứng Hawthorne
Thay đổi bắt đầu bằng sự chú ý.
Ở ngoại ô Chicago, Mỹ từng có một nhà máy sản xuất tổng đài điện thoại mang tên Hawthorne. Hệ thống ở đó rất hoàn thiện nhưng công nhân rất không hài lòng với công việc của họ và hiệu quả hoạt động của nhà máy rất kém.
Sau đó, nhà tâm lý học George Elton Mayo của Harvard đã lãnh đạo một nhóm tiến hành một loạt nghiên cứu thực nghiệm tại nhà máy này. Trong số đó, nhóm nghiên cứu đã chọn khoảng chục nữ công nhân tham gia thí nghiệm và ngạc nhiên nhận thấy hiệu quả làm việc của họ tăng lên cho dù họ tăng hay giảm phúc lợi.
Sau khi tìm hiểu sâu, người ta thấy rằng cảm giác vinh dự khi được chọn tham gia thí nghiệm, đặc biệt là sự tôn trọng và quan tâm của người nghiên cứu chứ không phải là sự ra lệnh, mệnh lệnh của người quản lý, chính là động lực thúc đẩy họ.
Đây là nguồn gốc của thuật ngữ tâm lý học “Hiệu ứng Hawthorne ”. Nó cho thấy rằng khi mọi người nhận được sự quan tâm tích cực từ thế giới bên ngoài, họ thường có nhiều khả năng thay đổi hành vi và hoạt động tốt hơn.
Nếu chúng ta mang lại cho trẻ sự tôn trọng, sự quan tâm thì con sẽ có nhiều động lực để học và hoàn thành những công việc được tốt hơn, và khi đó con sẽ trở nên có được tính kỷ luật tự giác.
Theo giadinhonline.vn