leftcenterrightdel
Lớp học tiếng Việt ở Ekaterinburg, Liên bang Nga. (Nguồn: TTXVN) 

Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc ngày càng trở nên quan trọng đối với các quốc gia - dân tộc. Vừa gìn giữ được bản sắc văn hóa, vừa phát huy “sức mạnh mềm” về văn hoá trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế cũng là một nhiệm vụ quan trọng trong “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030”.

Nhắc đến việc phát huy những giá trị văn hoá Việt Nam trên thế giới, tôi nhớ có một câu nói quen thuộc: “Mỗi người Việt Nam ở nước ngoài là một sứ giả của văn hóa Việt Nam”.

Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

Kết luận 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới nhấn mạnh nhóm nhiệm vụ, giải pháp về “đa dạng hoá các hoạt động hỗ trợ đồng bào Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn tiếng Việt, phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Chú trọng hợp tác với nước sở tại, đổi mới, nâng cao hiệu quả, phương thức tổ chức dạy và học tiếng Việt…”

Với nhận thức sâu sắc về sứ mệnh của một “sứ giả văn hóa”, người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng ý thức rõ hơn tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa, tiếng Việt trong lòng xã hội sở tại.

Đó là lý do hàng trăm hội đoàn thường xuyên liên hệ, phối hợp với các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tổ chức các lớp học tiếng Việt, các câu lạc bộ hát dân ca, sáng tác thơ, nhiếp ảnh, thể thao, võ cổ truyền, nhóm nhạc...

Đó là lý do hàng chục điểm trường, lớp tiếng Việt được Nhà nước tài trợ các hội đoàn xây dựng, vận hành và quản lý; hàng trăm giáo viên được hỗ trợ lương, tập huấn về nghiệp vụ sư phạm...

Có thể thấy, phong trào dạy và học tiếng Việt của người Việt Nam ở nước ngoài có sự phát triển rõ nét cả về nội dung và phương thức truyền đạt, đẩy mạnh hình thức dạy và học trực tuyến, mở rộng mô hình “gia đình học tiếng Việt”… Tiếng Việt còn được công nhận và giảng dạy như ngoại ngữ thứ hai ở trường phổ thông một số quốc gia, vùng lãnh thổ có đông người Việt như Mỹ, Czech, Đài Loan (Trung Quốc)…

Nhân đây, tôi lại nhớ những cuộc gặp “đa ngôn ngữ” khá phổ biến của con em Bộ Ngoại giao. Các cháu khi có dịp gặp nhau thì đâu đó sẽ có cháu nói chuyện bằng tiếng Nga, tiếng Nhật hay tiếng Đức. Nhiều cháu “bắn” tiếng Anh mà tôi ngỡ là người Mỹ…

Nghe có vẻ như cuộc họp của Liên hợp quốc (?!) Lý do đơn giản là bố mẹ của các cháu từng công tác tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở địa bàn nói thứ tiếng đó.

Rõ ràng là nhiệm kỳ công tác của các cán bộ ngoại giao tại Cơ quan đại diện ở nước ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển ngoại ngữ của con cái. Thường thì các cháu sẽ có cơ hội học bằng ngôn ngữ của nước sở tại và như một lẽ tự nhiên, nhiều cháu gắn bó với ngôn ngữ đó trong chặng đường dài của cuộc đời.

Đến đây, tôi lại nghĩ, khi các nhà ngoại giao nước ngoài công tác ở Việt Nam, bản thân họ và con cái của mình cũng có điều kiện “nhúng” trong môi trường văn hóa Việt, học tiếng Việt hay tham gia những chương trình bằng tiếng Việt… Những trải nghiệm đó hẳn cũng sẽ trở nên đáng nhớ trong cuộc đời của họ, khi trở về quê hương hay đặt chân đến những mảnh đất khác.

Lúc ấy, chính họ là những sứ giả nước ngoài của văn hóa Việt Nam.

Theo baoquocte