|
|
Giống với một số bệnh truyền nhiễm khác, Covid-19 trong thai kỳ cũng có thể khiến trẻ sơ sinh mắc bệnh rối loạn phát triển thần kinh. Ảnh:iStock. |
Medical Daily đưa tin vào 23/3, một nghiên cứu mới đăng trên JAMA Network Open tiết lộ nguy cơ bị rối loạn phát triển thần kinh của trẻ sơ sinh có mẹ nhiễm SARS-CoV-2 khi mang thai.
Các nhà nghiên cứu ở Bệnh viện Đa khoa Massachusetts (MGH) muốn tìm hiểu xem khi bị phơi nhiễm với virus trong nhau thai, bé trai hay bé gái sơ sinh có nguy cơ bị rối loạn não cao hơn.
Nhóm nghiên cứu phân tích dữ liệu của 18.355 trẻ sinh từ 2/2020 trở đi và những người mẹ có kết quả xét nghiệm dương tính với virus corona chủng mới thông qua xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase.
Họ phát hiện trong 12 tháng đầu sau khi sinh, trẻ nam thường được chẩn đoán rối loạn phát triển thần kinh nhiều hơn trẻ nữ. Họ viết trong nghiên cứu: "Những phát hiện này cho thấy nếu các bé trai phơi nhiễm với SARS-CoV-2 trong tử cung, chúng có nhiều khả năng mắc các rối loạn phát triển thần kinh".
Sau khi cân nhắc chủng tộc, sắc tộc, tuổi của mẹ, tình trạng sinh non và các yếu tố khác, nhóm nghiên cứu nhận thấy việc sản phụ mắc Covid-19 trong thai kỳ khiến tỷ lệ trẻ sơ sinh nam 12 tháng tuổi bị các chứng rối loạn thần kinh cao gần gấp đôi trẻ nữ.
Hiện tượng tương tự không xảy ra ở các bé gái sơ sinh.
MGH cho biết trong một thông cáo báo chí rằng các nghiên cứu trước đây xác định các bệnh nhiễm trùng khác trong thai kỳ có liên quan đến rối loạn phát triển thần kinh ở trẻ em, bao gồm rối loạn phổ tự kỷ.
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học tập trung vào 2 vấn đề: Liệu SARS-CoV-2 trong thai kỳ có mối liên hệ tương tự không; khi tiếp xúc với virus trong bụng mẹ, tỷ lệ mắc giữa bé trai và gái có khác nhau không.
Andrea Edlow, đồng tác giả nghiên cứu, thạc sĩ Khoa học Y tế, nói: “Trong số trẻ có mẹ bị Covid-19 lúc mang thai, trẻ sơ sinh nam có nguy cơ mắc rối loạn thần kinh rất cao. Điều này khiến chúng càng dễ bị tổn thương khi đối mặt với các phơi nhiễm bất lợi trước khi sinh”.
Roy Perlis, thạc sĩ Khoa học Y tế, người cùng tham gia nghiên cứu, cho biết họ hy vọng sẽ mở rộng đối tượng nghiên cứu và tiến hành theo dõi mẹ và bé sau nghiên cứu để có kết luận chắc chắn hơn.
Ông chia sẻ nghiên cứu được hỗ trợ bởi Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia, Quỹ Simons và Viện Sức khỏe Trẻ em và Phát triển Con người Quốc gia (Mỹ).
Theo zingnews