Các triệu chứng của ung thư buồng trứng thường mơ hồ và không cụ thể, đòi hỏi nhận thức một phần từ phía người bệnh cũng như bác sĩ. Ung thư buồng trứng đang gia tăng ở Singapore và có thể trở thành căn bệnh ung thư phụ khoa hàng đầu trong tương lai gần.
Thống kê hiện tại
Một nghiên cứu thống kê số liệu ung thư tại Singapore về tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng cho thấy xu hướng đáng báo động. Vào những năm 1970, ung thư cổ tử cung là loại ung thư phổ biến thứ 3 ở phụ nữ, trong khi ung thư buồng trứng xếp ở vị trí thứ 7.
Ung thư buồng trứng tăng dần lên trong thập kỷ tiếp theo để trở thành loại ung thư phổ biến thứ 6, và bước ngoặt xảy ra vào cuối những năm 1990 khi nó vượt qua ung thư cổ tử cung để chiếm vị trí thứ 4 trong khi ung thư cổ tử cung tụt xuống thứ 5.
Trong báo cáo tạm thời vào năm 2010 – 2015, ung thư buồng trứng giữ vững vị trí thứ 5 trong khi ung thư cổ tử cung tụt xuống vị trí thứ 10.
Triệu chứng ung thư buồng trứng thường gặp
Ung thư buồng trứng được biết là có một khởi phát ngấm ngầm. Bệnh nhân chỉ bắt đầu xuất hiện các triệu chứng ở giai đoạn muộn khi bụng chướng to do sự hiện diện của khối buồng trứng hoặc cổ trướng. Không may, các triệu chứng của ung thư buồng trứng không đặc hiệu và chúng có thể bao gồm:
- Chướng bụng do khối vùng chậu và/hoặc cổ trướng
- Đầy hơi
- Đau vùng chậu và/hoặc đau bụng
- Tăng số lần đi tiểu hoặc tiểu gấp
- Sụt cân không rõ nguyên nhân
- Thay đổi thói quen đại tiện
Bộ Y tế Singapore (MOH) đã ban hành hướng dẫn sàng lọc vào năm 2010 nêu rõ rằng không khuyến nghị sàng lọc đa phương thức cho phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng trung bình vì không có phương pháp hiệu quả nào để sàng lọc định kỳ cho những phụ nữ không có triệu chứng này. Tuy nhiên, hướng dẫn đề cập rằng, đối với những phụ nữ có nguy cơ cao (phụ nữ có tiền sử gia đình dương tính hoặc mắc các hội chứng di truyền), không có đủ bằng chứng để ủng hộ hoặc phản đối việc sàng lọc và bất kỳ hình thức phương pháp sàng lọc nào cũng sẽ chỉ dựa trên sự đồng thuận của chuyên gia.
Kiểm soát ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng về cơ bản vẫn được kiểm soát và điều trị bằng việc phẫu thuật. Phẫu thuật loại bỏ khối u ban đầu để loại bỏ càng nhiều bệnh càng tốt, sau đó là hóa trị gốc platinum, được coi là tiêu chuẩn vàng của điều trị.
Đối với những bệnh nhân mắc bệnh tiến triển đã lan rộng, phẫu thuật có thể không tối ưu, có thể cân nhắc thực hiện một vài chu kỳ hóa trị trước khi phẫu thuật. Điều này làm giảm tải lượng bệnh, cho phép tiếp nhận dinh dưỡng tốt hơn và bệnh có thể xử lý tốt hơn tại thời điểm phẫu thuật.
Với các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh sẵn có hiện nay, khả năng phẫu thuật giờ đây có thể được đánh giá một cách tin cậy hơn tại thời điểm xem xét và các phương án được thảo luận với bệnh nhân. Việc kiểm soát như vậy đã được chứng minh là có kết quả sống sót ngang bằng với cách kiểm soát bệnh truyền thống là phẫu thuật trước sau đó là hóa trị.
Liệu pháp đích hiện đang được nghiên cứu rộng rãi và kết hợp với hóa trị liệu truyền thống. Liệu pháp kết hợp cũng đã được chứng minh là hữu ích trong việc chống lại bệnh tái phát, kéo dài thời gian sống với bệnh không tiến triển. Liệu pháp miễn dịch cũng đang được nghiên cứu rộng rãi. Liệu pháp trên vắc-xin khối u thử nghiệm dựa trên kháng nguyên ung thư cũng đã được tiến hành ở bệnh nhân ung thư buồng trứng, phương pháp điều trị này nhằm tạo ra phản ứng của tế bào T.
Ung thư buồng trứng hiện là bệnh ung thư phụ khoa gây tử vong cao nhất và đang có xu hướng gia tăng. Cho đến khi xác định được một phương pháp sàng lọc hiệu quả, trọng tâm cho tương lai sẽ phát triển xung quanh phẫu thuật kịp thời, hóa trị hiệu quả và phương pháp trị liệu mới, ví dụ như liệu pháp sinh học và liệu pháp đích.
Theo suckhoedoisong.vn