Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định nhiều nội dung mới và nhân văn, đó là “Xác lập chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận” bên cạnh định chế truyền thống có từ lâu là “Xác lập chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật”. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hành nghề luật sư, tôi nhận thấy rất ít đôi vợ chồng yêu cầu giúp đỡ về thủ tục xác lập chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, trong khi xu hướng giới trẻ hiện nay và nhất là với những người thành đạt, có nhiều tài sản nhưng bị đổ vỡ trong hôn nhân… có nhu cầu và rất quan tâm về chế độ “hôn khế”, theo kiểu rạch ròi tài sản “chung, riêng” trước khi kết hôn.
Nguyên nhân là do các đôi nam nữ có tâm lý ngại việc “rạch ròi” quá sẽ ảnh hưởng chuyện tình cảm vợ chồng; một phần các tổ chức hành nghề công chứng hiện nay hay yêu cầu các đương sự phải cung cấp (theo kiểu liệt kê) cụ thể danh mục các tài sản riêng trước khi kết hôn, thì mới có cơ sở để chứng nhận, trong khi người trong cuộc vì nhiều lý do tế nhị họ không muốn công khai tất cả các tài sản hiện có…
Chính sự “cứng nhắc” đó làm cho các đôi vợ chồng chần chừ trong việc đăng ký kết hôn, dù rằng nhiều trường hợp họ đã cưới nhau, chung sống với nhau, rất hợp nhau và thậm chí đã có con chung với nhau.
Như vậy, làm thế nào để vừa đăng ký kết hôn, hợp thức hóa hôn nhân, đảm bảo quyền lợi của con trẻ, mà vẫn bảo đảm vấn đề tài sản riêng chung theo thỏa thuận mà các bên vẫn vui vẻ, tin yêu và sống hạnh phúc bên nhau?
Thực tiễn công tác pháp lý, thời gian qua tôi đã tư vấn và thực hiện thành công một số trường hợp vợ chồng lập văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản trước khi kết hôn theo kiểu “có chung, có riêng” và đặc biệt là với tài sản riêng trước khi kết hôn thì “không cần liệt kê”.
Theo đó, nội dung chính cần thể hiện tại văn bản thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng là:
Tài sản được xác định là tài sản riêng, bao gồm:
- Toàn bộ tài sản chỉ ghi tên của người nào trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, trao đổi, góp vốn và các văn bản, hợp đồng khác mà có trước khi đăng ký kết hôn thuộc sở hữu riêng của người đó.
- Toàn bộ tài sản chỉ ghi tên của người nào trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, trao đổi, góp vốn và các văn bản, hợp đồng khác mà có sau khi đăng ký kết hôn thuộc sở hữu riêng của người đó.
Tài sản được xác định là tài sản chung, bao gồm:
- Toàn bộ tài sản ghi tên của cả vợ và chồng trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, trao đổi, góp vốn và các văn bản, hợp đồng khác mà có sau khi đăng ký kết hôn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Về thủ tục, văn bản này phải được công chứng theo quy định của pháp luật. Nội dung thỏa thuận nói trên phù hợp, an toàn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản cho các bên trong điều kiện hiện tại và cả trong tương lai.
Sau khi kết hôn, nếu vợ hoặc chồng muốn bán tài sản mà mình có được trước khi kết hôn, kể cả tài sản trong thời kỳ hôn nhân mà người đó đứng tên riêng thì chỉ cần xuất trình văn bản nói trên là có thể toàn quyền định đoạt mà không cần hỏi ý kiến của người kia.
Trường hợp vợ hoặc chồng muốn mua, tạo lập tài sản trong thời kỳ hôn nhân và muốn đứng tên riêng thì căn cứ hợp đồng mua bán và văn bản này thì người đó sẽ được đăng ký cấp giấy chứng nhận chủ quyền riêng, các cơ quan có thẩm quyền cũng không đòi hỏi ý kiến hoặc văn bản xác nhận tài sản riêng của người kia.
Như vậy, giải pháp trên sẽ giúp các bên yên tâm trong việc đăng ký kết hôn, chung sống lâu dài với nhau, trọn vẹn chữ “lý, tình”; trường hợp lỡ có ly hôn, chia tay nhau thì tài sản cũng đã được quy định rạch ròi, tránh những tranh chấp, thiệt thòi, bất công cho một hoặc cả hai bên về sau.
Luật sư Huỳnh Minh Vũ
|