Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 tại xóm Trại Đồng, xã Tân Tiến (nay là thị trấn Nê, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) trong gia đình có 5 anh chị em, bà là con út. Cái tên Nguyễn Thị Chiên là do anh em du kích đặt cho bà sau này, còn cha mẹ bà chỉ gọi là Tý Con. Gia cảnh khốn khó, sinh bà hôm trước, hôm sau người mẹ đã phải ủ con trong gio bếp cho nóng để đi làm thuê, làm mướn lần hồi kiếm miếng ăn. Nạn đói năm 1945 đã lần lượt cướp đi 4 anh chị của bà. Mới được vài tuổi, bà đã phải đi ở mướn, bế con cho nhà giàu trong làng để kiếm ăn qua ngày.

Sau phong trào ‘Tiếng trống Tiền Hải’ năm 1930, Thái Bình trở thành điểm nóng trong cuộc chiến chống thực dân Pháp. Mặc dù bị địch quây hãm, đàn áp nhưng phong trào ở đây không vì thế mà yếu đi. Mạng lưới cách mạng được nối nhịp, dựng xây và huyện Kiến Xương của bà được chọn làm nơi hoạt động đi về của các chiến sĩ cách mạng, của binh đoàn chủ lực.

1.jpg
Bà Nguyễn Thị Chiên được phong tặng danh hiệu Anh hùng ở tuổi 22.

 

Do nhanh nhẹn và có chí khí từ bé, mới hơn 10 tuổi, cô bé Nguyễn Thị Chiên đã được các anh, các chị vận động vào lực lượng du kích. Thế là ban ngày đi làm thuê làm mướn, bế em, xay cám, chăn lợn, tối đến, cứ xong bữa cơm tối bà lại đóng cửa phòng ‘đi ngủ’, chờ chủ nhà không để ý, lén mở cửa ra ngoài rải truyền đơn bí mật đến chỗ các anh, các chị du kích trong xã tập luyện và làm các công việc các anh, các chị phân công. Bà được các anh chị du kích giao nhiệm vụ rải truyền đơn, kết hợp với bảo vệ vòng ngoài cho các cơ sở bí mật của cách mạng, đồng thời phát hiện nơi ém quân của địch.

Lúc này Kiến Xương trở thành tâm điểm chú ý của thực dân Pháp. Ngoài công việc được giao từ trước, bà bàn với anh em du kích tìm cách quấy nhiễu và phá hủy các đồn bốt địch, cướp súng, trộm súng của địch cho bộ đội chủ lực. Bà còn cùng với chị em mò cua bắt cá, đem bán lấy tiền đi mua lại súng đạn của những tên lính ngụy để chuyển cho bộ đội...

Bà không thể quên được những lần chặt cây chuối làm phao kẹp vào nách bơi vượt sông Thái Bình đi quấy nhiễu đồn bốt của thực dân Pháp. Lúc đi đạn bắn dữ dội, lúc về xe lội nước địch ào ào đuổi đằng sau. Những chuyến đi, về đều an toàn và những đợt tập kích địch đã làm vững vàng thêm bản lĩnh và nối dài chiến công của nữ du kích Nguyễn Thị Chiên.

Trong thời gian hoạt động du kích, ngoài những lần cải trang, lọt qua sự kiểm soát nghiêm ngặt của địch để đưa công văn, thư từ, đưa cán bộ ra vào an toàn, bà nhớ nhất là lần phối hợp với Đại đội 44, Tiểu đoàn 680, Đại đoàn 320 đánh lính Âu Phi trên đường 39. Chính ở trận này, dù chỉ tay không nhưng bà đã bắt được tên quan hai Pháp.

Đó là khi phát hiện tên quan hai Pháp cùng 2 tên lính cận vệ tách khỏi tiểu đoàn lính Âu Phi, bà đã bám theo. Địch có 3 tên trong khi chỉ có mình bà, nhanh chóng và bản lĩnh, từ bụi chuối bên bờ mương, bà dõng dạc hô như đang chỉ huy  một đội hình lớn mạnh trong tay. Nghe lời hô bất thần, hai tên cận vệ đã bỏ tên quan hai Pháp chạy ra đường, bà thừa thế nhanh chóng nhảy vào giật ngay khẩu súng tiểu liên trong tay tên quan hai chĩa vào hắn bắt hàng rồi dẫn về giao nộp cho Đại đội 44. Tên quan hai Pháp bị bắt, cả tiểu đoàn Âu Phi rơi vào cảnh hỗn độn. Đại đội 44 được giữ bí mật đến phút chót đã quyết định tấn công. Trận này ta thắng lớn. Ngoài tên quan hai Pháp bị bắt, tiểu đoàn lính Âu Phi cũng bị xóa sổ. Cái tên ‘Người phụ nữ tay không bắt giặc’ cũng theo bà từ đó.

Tháng 4/1950, khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, bà bị địch bắt, giam cầm hơn 3 tháng trời. Giặc hết dụ dỗ đến tra tấn dã man, song người nữ du kích gan dạ kiên quyết không hé răng nửa lời. Những ngày ở lao tù, bà nhớ nhất là những lần bị địch buộc tay chân vào một cây tre rồi đem vứt xuống sông. Chờ bà sắp chết, chúng lại vớt lên nhưng vẫn không moi được thông tin. Địch lại giả vờ đem bà đi bắn. Băng đen bịt mắt, tay chân buộc như tử tù, giặc nổ súng. Bà vẫn không sợ. Không khai thác được thông tin gì và không có chứng cứ buộc tội, cuối cùng, giặc phải thả bà ra.

Nguồn sức mạnh khiến một cô gái mới mười chín, đôi mươi lại có thể chịu đựng được những đòn tra tấn dã man của địch đó là là bởi trong tim bà luôn có hình ảnh Bác Hồ. Nhiều năm sau, bà tâm sự rằng: ‘Tôi đã tự đề ra câu hỏi trong đầu như thế này: Nếu như địch bắn vào chỗ nguy hiểm và nhất định mình nắm chắc cái chết trong tay, thì lúc bấy giờ tôi hô: Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng Cộng sản muôn năm!... Tôi cương quyết không khai và hy vọng sau này nếu kháng chiến thành công, nhất định tôi sẽ được gặp Bác Hồ. Cuối cùng tôi đã chiến thắng’.

Ra tù, Nguyễn Thị Chiên tiếp tục lao vào hoạt động du kích. Tháng 10/1951, trong trận phục kích đánh địch trên đường 39, bà bắn bị thương một tên địch, bắt sống 6 tên, thu 4 súng. Tháng 12/1951, khi địch lùng sục vào làng, bà chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 tên địch.

bc-h-v-cc-anh-hng-chin-s-thi-ua-ti-vit-bc-nm-1952-anh-hng-nguyn-th-chin-ng-th-5-t-tri-qua.jpg
Bác Hồ và các Anh hùng Chiến sĩ thi đua tại Việt Bắc năm 1952 (Anh hùng Nguyễn Thị Chiên đứng thứ 5 từ trái qua).

 

Với thành tích trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1952, tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật (huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) đánh địch chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề, diệt và bắt nhiều địch, Nguyễn Thị Chiên đã được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến công hạng Nhất, hai Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Năm 1952, Nguyễn Thị Chiên vinh dự là đại biểu nữ du kích duy nhất được chọn đi báo cáo điển hình tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Việt Bắc (1-6/5/1952). Với những đóng góp của mình, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Năm ấy bà mới 22 tuổi.

Càng vinh dự, tự hào hơn khi tại Đại hội, bà đã được gặp Bác Hồ. Quá xúc động khi được gặp Bác, bà đã òa khóc, một lúc sau mới trấn tĩnh lại để ghi nhớ những lời Bác dặn. Những lời căn dặn của Bác trong lần gặp này là động lực lớn khích lệ các đồng chí quyết tâm vượt qua khó khăn gian khổ chiến đấu giành thắng lợi.

Bà còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng một khẩu súng lục của Người với lời nhắn nhủ: ‘Cháu Chiên ước mong được một khẩu súng lục để chiến đấu, Bác thay mặt Chính phủ và đoàn thể sẽ cho cháu một khẩu súng lục”. Đây là một phần thưởng cao quý không phải chiến sĩ nào cũng đạt được, thỏa mong ước cháy bỏng của bà trong suốt quá trình hoạt động du kích.

Ngày 10/8/1952, Chủ tịch Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 107/QĐ tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc cho chị cùng 6 chiến sĩ thi đua của các ngành. Không những thế, bà còn được Bác viết bài khen ngợi, tuyên truyền tấm gương gan dạ, dũng cảm cùng thành tích trong chiến đấu trên báo chí và trong nhiều cuộc hội nghị trong kháng chiến chống Pháp.

4.jpg
Trung tá Nguyễn Thị Chiên năm 2010.

 

Sau Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc, Anh hùng Nguyễn Thị Chiên được cử tham gia đoàn đại biểu đi dự Đại hội Hòa bình châu Á - Thái Bình Dương tại Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại hội Hòa bình Thế giới tại Viên (Áo) cùng với các nhà trí thức Việt Nam như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, cư sĩ Lê Đình Thám, nhà giáo Đặng Chấn Liêu, nhạc sĩ Đỗ Xuân Oanh, Nguyễn Xuân Trâm, Anh hùng Ngô Gia Khảm… do đồng chí Xuân Thủy làm trưởng đoàn.

Năm 1953, Nguyễn Thị Chiên chính thức gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam. Với kinh nghiệm tổ chức và triển khai lực lượng du kích địa phương, bà được điều về Hà Nội với nhiệm vụ phụ trách và quản lý dân quân 4 huyện ngoại thành. Trong công tác mới, bà đã gặp ông Vũ Anh Tài, cán bộ Sư đoàn 320. Bà và ông đã nên duyên, rồi sinh được một người con gái và đây cũng là người con gái duy nhất của họ.

Sau nhiều năm công tác tại Tổng cục Chính trị, Quân khu Thủ đô, bà Nguyễn Thị Chiên về hưu với quân hàm Trung tá năm 1984 với thương tật hạng 4/4. Anh hùng Quân đội Nguyễn Thị Chiên qua đời vào sáng 1/6/2016, hưởng thọ 87 tuổi.

Nguyễn Thị Chiên đã nhiều lần được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc tới.

- Với bút danh C.B trên Báo Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một bài riêng với nhan đề: ‘Nguyễn Thị Chiên’. Bài báo viết: ‘Nữ trung đội trưởng du kích Nguyễn Thị Chiên là một cố nông, 22 tuổi, vào đội du kích từ 1946. Vùng chị Chiên thường bị giặc càn quét. Cơ sở tan rã. Nhân dân hoang mang. Chị cứ bám sát lấy dân, lập lại cơ sở chính quyền và đoàn thể, tổ chức một trung đội nữ du kích chống càn quét, bảo vệ làng. Bị bắt, bị tra tấn suốt 3 tháng, bị đưa ra bắn dọa 3 lần, chị vẫn bình tĩnh, không khai nửa lời. Vừa thoát được về, tuy mình đầy vết thương, chân đau không đi được, chị cũng hoạt động lại ngay. Trong đợt thi đua từ 19/5 đến 19/12/1951, chị đã thắng 10 trận, tự tay tước được 15 súng và bắt sống 20 tên giặc (1 tên quan hai pháp). Trong các trận, chị không hề bỏ sót một người thương binh nào. Trong vụ thuế nông nghiệp, chị đã thức 3 đêm liền, tuyên truyền giải thích từng nhà, từng người. Nhiều người lạc hậu, thấy chị thành khẩn, đều cảm động và trở nên hăng hái. Khi bắt được tên đồn trưởng (nó đã giết người anh của chị), chị giải thích chính sách khoan hồng của Chính phủ, rồi thả nó. Vì vậy, nó đã gọi nhiều ngụy binh khác ra hàng. Chị Chiên, vì yêu nước, căm giặc, trung thành với đoàn thể, kiên quyết bám sát dân, luôn luôn thương yêu đồng đội, nắm vững và ra sức thi hành chính sách nên đã lập được công to, rất xứng đáng là Anh hùng Quân đội’. (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, 2000).

- Trong ‘Bài nói tại buổi bế mạc Lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức’, Hồ Chủ tịch nhắc nhở: ‘Chín năm trước đây, nhân dân ta gồm cả trí thức ta, bị Tây khinh rẻ và gọi là “giống bẩn thỉu”. Ngày nay, ta có những anh hùng như Ngô Gia Khảm, Hoàng Hanh, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Quốc Trị và đang nảy nở hàng trăm chiến sĩ và anh hùng trong phong trào thi đua yêu nước’. (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia 2000).

- Khi viết bài “Người cán bộ cách mạng” vẫn với bút danh C.B, Hồ Chủ tịch lại nhắc đến: ‘Nữ anh hùng du kích Nguyễn Thị Chiên, mấy lần bị giặc bắt và tra tấn sống đi chết lại. nhưng không hề lộ bí mật: mỗi lần thoát khỏi tay địch, hoạt động càng thêm hăng’. (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia 2000).

Phụ nữ Việt Nam