Nguồn gốc của Áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 1.

Nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Bách. Ảnh: Khánh An

 

Chi tiết lịch sử thứ hai có thể liên quan đến cái áo dài năm thân là từ quyển sách 'Phủ biên tạp lục' của Lê Quý Đôn viết khi ông làm hiệp trấn Thuận Hóa, sau khi Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc của triều đình Đàng Ngoài chiếm được Thuận Hóa từ chúa Nguyễn năm 1776. Những gì Lê Quý Đôn viết trong Phủ biên tạp lục đã khiến nhiều người kết luận rằng chính chúa Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát của xứ Đàng Trong khi xưng vương năm Giáp Tý (1744) đã thay đổi cách ăn mặc của người dân Nam Hà, và tạo ra cái áo dài năm thân.

Nguyên ủy là trong sách 'Phủ biên tạp lục' của Lê Quý Đôn có đoạn: "Năm Cảnh Hưng thứ 5, Giáp Tý, Nguyễn Phúc Khoát nghe người Nghệ An truyền câu sấm: "Tám đời trở về Trung Nguyên", thấy từ Đoan Quốc công đến nay vừa đúng 8 đời, bèn xưng vương hiệu, lấy thể chế áo mũ trong 'Tam tài đồ hội' làm kiểu mới, áo đều dùng vóc đoạn, người sang thì dùng mãng bào thủy ba, mũ thì trang sức bằng vàng bạc. Lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ (Thuận, Quảng) đổi sang dùng áo quần Bắc quốc để tỏ sự biến đổi; đến như khiến phụ nữ đều mặc áo ngắn hẹp tay như áo đàn ông thì Bắc quốc không có như thế. Trải hơn 30 năm, người ta đều tập quen, quên cả tục cũ".

Đây là tất cả những gì Lê Quý Đôn viết về việc thay đổi trang phục xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1744. Và người ta suy từ đoạn viết này ra rằng chúa Nguyễn Phúc Khoát đã tạo ra cái áo dài 5 thân ngày nay.

Sách 'Tam tài đồ hội' của đời Minh, Trung Quốc, có 3 tập viết về các lễ phục của triều Minh. Các lễ phục của các triều Lê-Nguyễn Việt Nam về sau vẫn theo thể chế lấy ra từ sách này chứ không theo thể chế của nhà Mãn Thanh. Về áo tay hẹp (trách tụ) thì trong sách liệt kê một cái áo dài tay hẹp của phái nam có cổ tròn (bàn lĩnh, không có cổ đứng) được gọi là 'trách tụ sam'. Tay áo trách tụ sam hẹp hơn tay áo thụng, nhưng rộng hơn tay áo dài Việt Nam, và nách áo rộng gần như nách áo thụng. Phần trang phục của sách Tam tài đồ hội không có chỗ nào nhắc đến áo ngắn.

Còn như cái áo ngắn có tay hẹp được Lê Quý Đôn nhắc đến trong đoạn văn này thì nguyên văn chữ Hán trong sách Phủ biên tạp lục viết rõ là 'trách tụ đoản y' (áo ngắn hẹp tay), cho nên không thể là áo dài (tức là trường y hay trường sam) được.

Hiện nay ở nước ta vẫn có các loại áo ngắn hẹp tay như áo cánh, áo bà ba… Bên cạnh đó cho đến giữa thập niên 1970, các gia đình người Việt giầu sang ở Sài Gòn ưa nuôi các phụ nữ người Hoa, gọi là Xẩm, để giúp việc nhà hay trông trẻ em. Những phụ nữ Xẩm này vẫn mặc quần với áo ngắn hẹp tay của phụ nữ Hán tộc đời Thanh, mà họ gọi theo tiếng Quảng Đông là 'tủn xám', tức là đoản sam. Loại y phục này rất phổ biến trong Chợ Lớn thời đó. Chắc đây mới là những dạng áo ngắn hẹp tay được nhắc đến trong dụ của chúa Nguyễn Phúc Khoát.

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 1.

Trái: 'Trách tụ sam' trong sách Tam tài đồ hội. Phải: Một cô Xẩm mặc áo trách tụ đoản sam ở Nha Trang (ảnh Gabrielle Vassal 1905)

Rồi sách Phủ biên tạp lục viết tiếp: "Năm Bính Thân (1776), mùa xuân, đặt nha môn Trấn phủ; tháng 7 mới hiểu dụ rằng: "Y phục bản quốc có chế độ, địa phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục. Nay kính vâng thượng đức dẹp yên cõi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục phải nên thống nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người Trung Quốc thì nên đổi theo thể chế của nước nhà"… "thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hay vải đen, hay vải trắng, tùy nghi".

Dụ tháng 7 năm Bính Thân này do Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc ban ra. Bản quốc ở đây có nghĩa là xứ Đàng Ngoài của triều đình Lê-Trịnh. Cái áo cổ đứng ngắn tay trong hịch của Hoàng Ngũ Phúc (nguyên văn chữ Hán trong sách là 'trực lĩnh đoản tụ y') thì dịch giả trước giờ vì không hiểu về trang phục cổ nên dịch sai. Cổ đứng phải là 'Thụ lĩnh' hay 'Lập lĩnh', chứ không phải là trực lĩnh. 'Trực lĩnh đoản tụ y' không phải là 'áo cổ đứng ngắn tay', mà phải dịch là 'áo ngắn tay với thân trước mở dọc'. Nghĩa là cái áo cánh. Đây không thể là áo dài tứ thân được, vì hai bên nách trở xuống phải may kín không xẻ mở.

Còn cái lễ phục trong dụ của Việp Quận công, mà Lê Quý Đôn viết là 'trường tụ trực lĩnh y' (bị dịch sai là cổ đứng tay dài), là loại áo 'Trường tụ bối tử' có từ thời Tống; với tay thụng dài, mở dọc ở giữa hai thân trước. Dạng áo này vẫn phổ biến ở thời Lê.  

Đời Thanh bên Trung Quốc có một loại áo dài cổ tròn tay hẹp gọi là 'Mãn thức trường sam', nghĩa là áo dài kiểu Mãn Châu. Áo Mãn thức trường sam thường để mặc lót trong các triều phục như 'Trường bào' hay 'Mã quái' (áo kỵ mã). Cuối thế kỷ 19 dân Hán tộc bên Trung Hoa đặt thêm cái cổ đứng lên áo trường sam, để thành một loại Hán phục. Và họ gọi nó là 'Trường bào', thay cho áo trường bào của triều Thanh. Áo trường bào phái nữ lúc đó có thêm cái cổ đứng và được gọi là 'Kỳ bào'. Áo Mã quái cũng được thêm cái cổ đứng, rồi gọi là 'Đại quái'. Giữa giai đoạn 1911-1949 áo Trường bào Hán phục và áo khoác Đại quái là quốc phục của Trung Hoa Dân quốc.

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 3.

Trái: Mãn thức trường sam mặc trong áo khoác Mã quái, vẽ năm 1821 (Metropolitan Museum, New York) Phải: Áo Trường bào Hán phục (ảnh Wolfgang Wiggers)

Rồi đến đầu thập niên 1920 lại có một loại trường sam mới của phái nữ xuất hiện ở Thượng Hải. Áo này là do áo Kỳ bào được cách tân thêm mà thành. Đây là áo 'Sường xám', tức là trường sam được phát âm theo tiếng Quảng Đông, mà từ lâu đã trở thành quen thuộc với người Việt. Sường xám nữ có thân giống áo dài Việt Nam, nhưng tay ngắn hơn, hoặc về sau này không có tay. 

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 4.

Trái: Một cung phi triều Thanh mặc Kỳ bào cuối thế kỷ 19. Phải: Bà Tống Khánh Linh, phu nhân lãnh tụ Tôn Dật Tiên, mặc sường xám thập niên 1930 (ảnh tư liệu)

Áo dài tay chẽn mặc với quần xuất hiện khá trễ trong lịch sử trang phục của Trung Hoa. Nhưng lối ăn mặc này lại phổ biến ở khu vực Ấn Độ-Pakistan-Afghanistan từ cả hai ngàn năm, và được gọi là 'Salwar Kameez'.  Salwar có nghĩa là quần, và kameez là áo. Cách gọi này là do ảnh hưởng của vùng Trung Đông lên Ấn Độ hồi thế kỷ 11-13.  Trang phục salwar kameez rất phong phú, với nhiều tên gọi và kiểu dáng khác nhau tùy khu vực. Trong đó có dạng áo dài Kurta với quần Paijama, được Pakistan nhận làm quốc phục ngay sau khi lập quốc năm 1947, rất gần gũi với áo dài Việt Nam. 

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 5.

Quốc phục salwar kameez của Pakistan. Trái: Áo kurta nam với quần paijama (ảnh Sanaulla). Phải: Áo kurta nữ với quần palazzo và khăn dupatta (ảnh Kalki Fashion)

Từ hàng ngàn năm trước áo dài có tay bó đã xuất hiện ở Ấn Độ dưới dạng kameez Varbana xẻ vai chui đầu, kameez Angarkha có thân áo trước mở dọc một bên, và áo khoác kameez Sherwani mở dọc giữa thân trước. Dạng kameez Kurta có mở một chút ở cổ áo thân trước để chui đầu được người Hồi giáo đem vào Ấn Độ từ thế kỷ thứ 11 đến 13.

Cùng lúc đó tên gọi kameez cũng được người Hồi giáo đưa vào bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) mà họ mới chiếm làm thuộc địa. Ở đây nó được phiên âm theo tiếng Latin thành Camisia, và rồi thành Camisa ở Tây Ban Nha. Sau đó tên loại trang phục này được phát âm là Chemise (Sơ mi) ở Pháp. Cũng khoảng từ thế kỷ 10-11, các nhà buôn Ả rập và Ấn Độ cũng truyền bá văn hóa của họ, trong đó có trang phục, đến vùng đông nam Á châu.

Vì lý do kiêng gợi dục của đạo Hồi, áo dài kurta nguyên thủy may thẳng không ôm thân thể, và không mở dọc cài khuy ở thân trước. Áo được xẻ mở một đoạn trên cổ trước ngực hay xẻ bên vai để chui đầu, rồi thắt dây hay cài khuy. Cho đến tận bây giờ, vì lý do tôn giáo mà áo kameez kurta phái nữ của người Pakistan dù có may bó theo thân thể vẫn không xếp li bó eo. Đàn bà còn che tóc và cổ bằng khăn choàng Dupatta, là phần không thể thiếu thứ ba trong bộ trang phục salwar kameez của người Ấn-Hồi. 

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 6.

Áo kurta nữ dạng may ôm người, với quần palazzo và khăn dupatta (ảnh tổng hợp)

Trong khi đó người Ấn Độ cởi mở hơn cho nên áo kameez phái nam của họ vẫn còn có dạng Sherwani và Achkan mở dọc và cài khuy ở giữa thân trước hay ở một bên. Và từ thập niên 2000 còn lác đác thấy có dạng áo kurti phái nữ có chít li ở eo.

Quần (salwar) đã được phổ biến ở Ấn Độ dưới dạng Svathana bó chân từ cả hơn ngàn năm trước. Hiện nay salwar có rất nhiều dạng và tên khác nhau tùy vùng. Nhưng liên quan đến áo dài Việt Nam thì chỉ kể đến 3 dạng, là salwar Churidar có ống chật, là hậu thân trực tiếp của quần svathana; salwar Palazzo với ống loe rộng; và salwar Paijama ống thẳng giống như quần áo dài Việt Nam. Quần paijama, được người Tây Phương ưa chuộng, bao lâu nay cùng áo ngắn jama đã trở thành bộ quần áo ngủ pi-da-ma thông dụng khắp nơi trên thế giới, và cả ở nước ta.

Áo dài 5 thân của Việt Nam cũng đã hiện hữu từ lâu lắm rồi. Trong quyển sách 'Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Gesù al Regno della Cocincina' xuất bản năm 1631, linh mục-tác giả Cristoforo Borri cho biết rằng cái áo dài mầu thâm phổ biến của nam giới và sỹ tử ở Thuận Quảng đầu thế kỷ 17 trông tương tự như áo chùng thâm của các giáo sỹ Công giáo thời đó. Ông cũng cho biết rằng đàn ông Nam Hà cũng để tóc dài và quấn khăn như đàn bà. 

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 7.

Trái: Áo chùng thâm của linh mục Công giáo La Mã thế kỷ 21 (ảnh uncatolico) Phải: Áo dài 5 thân của một giáo sỹ Công giáo ở Nam Đinh cuối thế kỷ 19 (ảnh tư liệu)

Các cuộc cách tân áo dài 5 thân

Trong cuộc cải cách áo dài 5 thân của phụ nữ ở thập niên 1930, các họa sỹ tham dự vào việc cải tiến như Lê Phổ, Lê Thị Lựu, Cát Tường…, vẫn giữ hình dạng của áo dài 5 thân. Chỉ đổi mới bằng cách làm cho áo tương đối ôm thân thể hơn, và bằng cách bỏ việc nối sống giữa. Vì lúc đó có những loại vải nhập từ Âu châu được dệt với khổ rộng hơn, không cần nối vải nữa. Ngoài ra cái vạt thứ năm (tức vạt hò) bên trong cũng được bỏ đi một nửa bên dưới. Áo dài như vậy trở thành 3 thân, nhưng vẫn gọi là 5 thân hay năm tà. Cho đến thời điểm đó áo dài Việt Nam vẫn chưa có chít li ở eo. 

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 8.

Trái: Họa sỹ Lê Thị Lựu trong áo dài 3 thân đầu thập niên 1940 (ảnh tư liệu) Phải: Áo dài gấm thất thể 3 thân năm 1948 ở Hà Nội (ảnh tư liệu)

Trong số các nhà cách tân áo dài phụ nữ thời thập niên 1930, họa sỹ Cát Tường, tức Lemur do tên Tường của ông dịch ra tiếng Pháp rồi biến thể đi một chút, đã cố gắng cách tân cái áo dài năm thân truyền thống một cách táo bạo hơn cả. Ông đả phá nguyên tắc che cổ bịt tóc ngàn xưa của người Việt trong việc cải biên của ông. 

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 9.

Một áo dài Lemur tiêu biểu (ảnh tư liệu)

Hãy đọc một đoạn văn do chính họa sỹ Cát Tường viết trên báo Phong Hóa số ra ngày 23 tháng 2 năm 1934, về ý tưởng của ông trong việc cách tân cái áo dài 5 thân truyền thống: "Các bạn thử để ý xem, cái áo hiện thời của các bạn có cái gì bất tiện và thừa không? Muốn để các bạn khỏi tốn thì giờ vô ích, tôi xin thưa: Chính cái cổ là cái thừa, và hai ống tay bất tiện. Cúc cổ chẳng bao giờ cài thì cái cổ để làm gì? Tôi xin hỏi? Để che cổ ư? Thì nó nhỏ síu thế kia, che thế nào là đủ, vả lại áo các phụ nữ nước lạnh bên Âu, Mỹ còn chẳng cần cổ, nữa là xứ ta khí hậu rất nóng. Còn hai ống tay thì… thì các bạn cứ thử co tay lại vuốt mái tóc mà xem. Có phải nó chật quá không?… nó khó chịu và bất tiện lắm không? 

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 10.

Một vài mẫu áo dài Lemur (báo Phong Hóa)

 
Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 11.

Một vài chi tiết trong thiết kế mẫu áo dài Lemur (báo Phong Hóa)

Áo dài của ông Cát Tường rất Âu hóa. Áo có cổ cắt đa dạng, có khi khoét trái tim có khi có cổ lọ, hoặc có khi cổ hở được may vải nhún. Vai áo thường may bồng. Tay áo có khi cắt ngắn hay loe rộng. Quần thường có ống loe. Các loại áo dài phụ nữ cách tân ở thế kỷ 21 này rất nhiều khi chỉ là sự lập lại của những gì họa sỹ Cát Tường đã làm cách đây gần 90 năm. Với cái nhân sinh quan nệ cổ "răng đen, tóc xẻ ngôi giữa, vấn khăn" của đại đa số phụ nữ Việt lúc đó, áo dài Lemur chỉ được một bộ phận nhỏ phụ nữ rất cấp tiến đón nhận. Và áo dài Lemur gần như hoàn toàn biến mất sau khi họa sỹ Cát Tường biệt tích năm 1949. Hầu như không có một cái áo dài Lemur nào còn sót lại đến ngày nay…

Đến năm 1961 cái áo dài phụ nữ Việt lại có thêm một sự cải cách khá quan trọng. Đấy là việc một nhà thiết kế thời trang nữ người Mỹ gốc Nhật đang công tác ở Sài Gòn lúc bấy giờ, bà Michiko Uyemura đã tạo ra một thiết kế mới cho trang phục áo dài nữ Việt Nam. Bà đã lấy cái cổ cắt ngang và cái tay cắt hơi ngắn mà người phương Tây gọi là three-quarters tức là 3/4 (mà người mình gọi là "troa ca", tức Trois-quatres theo tiếng Pháp), được biết đến nhiều ở phương Tây lúc ấy qua trang phục Ấn Độ-Pakistan, cho cái áo dài mới của bà...

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 12.

Trái: Đồng phục salwar kameez của tiếp viên hàng không quốc gia Pakistan giai đoạn 1956-1960 với tay cắt 3/4 và khăn choàng dupatta (ảnh Pakistan International Airlines). Phải: Áo dài năm 1961 của nhà thiết kế Uyemura với cổ thuyền, tay cắt 3/4; và vạt áo dài hơn, theo phong cách áo dài Việt Nam lúc bấy giờ (ảnh UPI)

Từ khoảng năm 1962-1963 áo dài nữ dạng phổ thông ở Sài Gòn đã bắt đầu có xếp li để tạo eo. Và eo áo dần được bóp nhỏ đến hết mức có thể. Người ta hoặc mặc coóc xê (corset) bó bụng trong áo, hoặc dùng giây dải rút bằng sợi gai thít chặt bụng (mà dây chun và khuy cài không làm được), để đạt được cái eo ong lý tưởng đó. Cổ áo dài lưng ong cắt cao, độn nylon, và tà áo cắt rất dài.

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 13.

Áo dài thắt lưng ong ở Sài Gòn đầu thập niên 1960. Trái: thắt eo bằng dải rút. Phải: Thắt eo bằng corset (ảnh Life Magazine)

Áo kameez kurti phái nữ đúng mode nhất của Pakistan hiện nay lại trông nhang nhác giống áo dài mini, đúng hơn là midi, của Việt Nam ở những năm 1967-1971.  Giữa phong trào Hippy toàn cầu, áo dài nữ Việt Nam lúc đó được cắt ngắn bớt đi. Thân áo may nới ra ở eo, và nếp chít li bó eo có khi cũng được bỏ đi cho thoải mái, hợp thời. Vai áo dài mini được nối theo cách raglan để ôm vai mềm mại hơn, mà lại tiết kiệm vải. Vạt hò bên trong bị bỏ đi và áo dài từ đấy thành 2 thân, tuy vẫn giữ hình dạng của áo dài 5 thân.

Quần của áo dài mini Việt Nam cắt rất rộng, giống cái quần palazzo salwar được phụ nữ Pakistan và Ấn Độ ưa thích lâu nay. Đến nỗi bà Thanh Khánh, một nhà thiết kế vải áo dài nổi tiếng ở Sài Gòn lúc bấy giờ, đã than rằng "giống quần của người Hồi Quốc quá (Hồi Quốc là cách người mình gọi Pakistan lúc đó). Nhưng nếu may quần hẹp lại thì thành cứng, mà có khi lại giống họ hơn". Có khác chăng là cách cắt vai áo raglan và hàng khuy cài áo về một bên sườn của áo dài mini của Việt Nam lúc ấy. Và trong khi cái quần rộng của áo dài mini Việt thường được cắt rất dài, luôn che dấu đôi giầy hay dép platform đế cao bên dưới, thì quần salwar không bao giờ dài hơn mắt cá chân. Vì phụ nữ vùng Ấn Độ-Pakistan hay đi giày dép thấp gót hơn.

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 14.

Trái: Áo dài Mini có vạt cắt rất ngắn thời cao điểm, với dép Platform (ảnh Vinhmnghiem) Phải: Áo dài mini thời cuối (ảnh Vianaccessories)

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 15.

Áo dài kurti dạng thời trang và quần palazzo của phụ nữ Ấn Độ-Pakistan trông nhang nhác giống áo dài mini Việt Nam (ảnh tổng hợp)

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 16.

Một vài mẫu áo kurti hiện đại trẻ trung của thiếu nữ Ấn Độ và Pakistan, mặc với các quần palazzo và paijama (ảnh tổng hợp)

Các mẫu áo dài Ấn Hồi được nêu ra trong bài viết này vì các nhà chuyên môn về áo dài sẽ thấy sự tương quan của chúng với nhiều dạng áo dài Việt, cả 5 tà truyền thống lẫn cách tân. Nếu nhìn thoáng qua các phụ nữ Ấn Độ hay Pakistan mặc salwar kameez, người ta có thể tưởng nhầm là họ mặc áo dài Việt Nam

Cái cổ đứng đầu tiên ở Ấn Độ được cho là từ thời Hoàng đế Jahangir (1605-1627) của triều đại Hồi giáo Mughal (1526-1857). Lúc đó áo dài 5 thân của nước ta ở Thuận Quảng đã phổ biến sâu rộng rồi, cho nên cái cổ đứng của áo dài Việt chắc không lấy ảnh hưởng từ Ấn Độ.

Áo có cổ đứng xuất hiện ở Trung Quốc sớm hơn. Theo dõi tranh truyền thần của các hoàng hậu triều Minh, thì từ vị đầu tiên là Mã Hoàng hậu (1368-1382) vợ vua Hồng Võ, đến đời thứ 4 là Hồ Hoàng hậu (1425-1428) vợ vua Tuyên Đức, các hoàng hậu đều mặc áo lót ngắn hẹp tay với cổ trực lĩnh khoác chéo vạt bên trong áo bào (trực lĩnh đoản sam). Từ Hoàng hậu thứ 5 tức Hiếu Trang Hoàng hậu (1442-1449), vợ vua Anh Tông, cho đến hết triều Minh (1644), các hoàng hậu đều mặc áo lót trực lĩnh ngắn có cổ đứng (thụ lĩnh đoản sam).

Nhưng trong cả triều Minh cho đến gần hết triều Thanh, người Trung Quốc không có áo dài với cổ đứng. Các áo trường bào của cả nam lẫn nữ đời Thanh về gần cuối trào cũng có cổ đứng, nhưng là cổ giả gắn vào áo. Triều Thanh của người Mãn Châu luôn cấm việc lưu truyền Hán phục. Mãi đến cuối triều Thanh, ở cuối thế kỷ 19-đầu thế kỷ 20, các áo dài trường sam, trường bào và kỳ bào bên Trung Quốc mới có cổ đứng.

Trong khi đó cái cổ đứng đã có vị thế tuyệt đối trong áo dài của Việt Nam từ nhiều thế kỷ. Có khi chỉ nhờ cái cổ đứng mà người ta phân biệt được áo của người Việt và áo của người Hoa. Ví dụ như cũng là áo bào 'Mã quái' (áo mặc để cưỡi ngựa) cắt y hệt nhau ở cùng một thời, nhưng áo mã quái Việt Nam có cổ đứng (thụ lĩnh), trong khi áo mã quái Trung Hoa có cổ tròn (bàn lĩnh).

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 17.

Trái: Áo mã quái của một chúa Trịnh cuối thế kỷ 18 với cổ đứng. Phải: Áo mã quái của một vua nhà Thanh cuối thế kỷ 18 với cổ tròn (ảnh tư liệu)

Từ thượng cổ cho đến nhà Tùy (581-617) người Trung Hoa và các dân tộc lân cận đều chưa biết dùng khuy cài áo. Đời Đường mới bắt đầu có nút áo thắt bằng dây hay vải, nhưng chỉ dành riêng cho binh phục. Đến thời Minh thì nút áo, lúc đầu vẫn là nút thắt, bắt đầu được thông dụng. Có thể người mình bắt đầu học cách dùng nút áo từ thời điểm này. Đến thời Thanh bên Trung Quốc mới có khuy tết con bướm. 

Dựa theo Phủ biên tạp lục, năm 1427, tức là một năm trước khi hoàn toàn đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Bình Định Vương Lê Lợi đã cho chuyển tù binh và hàng binh người Minh vào Thuận Hóa. Trước đó cũng đã có nhiều người Hoa sinh sống ở đấy rồi. Chắc người dân Việt ở địa phương này đã phần nào chịu ảnh hưởng cách ăn mặc của họ, như trong việc dùng nút cài áo và dùng cái cổ đứng, mà mình gọi là cổ xây.

Nhưng nút áo dài truyền thống của mình là loại nút tròn bằng kim loại hay ngọc, ngà, san hô, thủy tinh... chứ không là loại cài móc hay loại nút tết con bướm thông dụng bên Trung Hoa, mà mình gọi là khuy Tầu. Và cái cổ xây của Việt Nam cắt hẹp bản hơn và ôm cổ hơn cổ đứng thụ lĩnh bên Trung Quốc.

Phong tục dấu tóc (vấn tóc) và che cổ là từ nền văn hóa và tín ngưỡng Ấn Độ, không phải của Trung Hoa. Hình dạng và tính cách của áo dài năm tà Việt Nam cũng gần với áo kameez của xứ nóng hơn là các loại trang phục phương Bắc. Ví dụ như các áo dài tay hẹp ở phương Bắc đều có tính cách của trang phục xứ lạnh, với tay áo cắt rộng dài hơn, cổ áo cao hơn, và vạt áo cũng cắt dài hơn trang phục của xứ nóng. Trong khi áo dài ngũ thân của Việt Nam có tay bó hơn và vạt ngắn hơn, theo kiểu các áo dài kameez Ấn Hồi. Chất liệu vải áo dài Việt cũng thường mềm và mỏng hơn…

Như vậy áo dài 5 thân ở Thuận Hóa, với ảnh hưởng rõ nét từ Ấn Độ như thế, phải được hình thành khi ảnh hưởng của nền văn minh Ấn-Hồi, được thể hiện trên nền văn hóa Champa, hãy còn sâu rộng ở đây. Rồi sau đó nó được đưa đi khắp nơi trong nước bởi nhà Tây Sơn. Và nhất là sau khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước năm 1802. Theo sách 'Ô châu cận lục' của Dương Văn An ấn hành năm 1555, thì thuở ấy ở Thuận Hóa vẫn còn các làng thôn ăn mặc theo lối của người Chăm; mặc dù vua Lê Thánh Tông đã chính thức đặt ra thừa tuyên Thuận Hóa và cho di dân Việt vào khẩn hoang, sinh sống ở đấy từ năm 1466.

Có lẽ đâu đó giữa thế kỷ 15 và 16, áo kameez của vùng văn minh Ấn Độ, qua người Chăm, được kết hợp với cách cài khuy áo bên sườn phải và cái cổ đứng theo kiểu của người Việt, để thành cái áo dài 5 thân Việt Nam ở Thuận Hóa. Đến khoảng cuối thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 17 áo dài ngũ thân đã phổ biến sâu rộng ở địa phương này, đến nỗi Đào Duy Từ có thể khuyên chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho phụ nữ xứ Đàng Trong mặc áo năm thân cài khuy cho khác biệt với cách mặc áo áo tứ thân thắt vạt khoe yếm của phụ nữ ngoài Bắc.

Nguồn gốc của áo dài Việt Nam (phần 2) - Ảnh 18.

Trái: Áo dài 5 thân mai cài thọ của một chúa Trịnh cuối thế kỷ 18. Phải: Áo dài 5 thân thiên thọ của một hoàng thái hậu triều Nguyễn cuối thế kỷ 19 (ảnh tư liệu)

  • Và áo dài 2 thân của nữ giới, vẫn trong hình dạng của áo 5 tà, đã tiếp nối di sản áo dài truyền thống của người Việt từ thế kỷ 16 cho đến nay. Riêng áo dài năm thân phái nam thì gần như không thay đổi gì suốt trong nhiều thế kỷ. Trừ ra một vài mẫu cách tân vui nhộn trong mấy năm gần đây dành cho giới trẻ. Còn từ thế kỷ 18 đến nay áo dài 5 thân vẫn được đàn ông Việt Nam trang trọng khoác vào khi tiếp khách ở mọi cấp bậc. 

  • Áo dài truyền thống trải qua 5 thế kỷ đã in sâu một cách thân thương cũng như thiêng liêng vào tâm hồn người Việt. Dù nó có thể có gốc gác từ đôi nguồn ngoại nhập nhưng người Việt đã sáng tạo ra những nét độc đáo riêng trên cái áo này để ngày nay nó có một chỗ đứng đặc biệt trong thế giới thời trang quốc tế, ngang với Kimono của Nhật Bản và Salwar Kameez của của các nước Ấn-Hồi. Và để giờ đây đến bộ từ điển bách khoa nổi tiếng toàn cầu Encyclopedia Britanica cũng phải có phần viết riêng về áo dài Việt Nam.

  • Nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Bách