Đào hầm giấu mộc bản và lén làm tranh
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước là người duy nhất của dòng họ còn kiên trì giữ nghề tranh mộc bản của làng Sình, một nghề truyền thống có tuổi đời gắn liền với vùng đất đã hơn 500 năm. Làng Sình, tên chữ là làng Lại Ân, xã Phú Mậu, trước đây thuộc H.Phú Vang, nay thuộc TP.Huế (Thừa Thiên-Huế).
Tiếp chúng tôi trong một buổi chiều muộn trong ngôi nhà ở làng Sình về phía hạ lưu sông Hương, vị nghệ nhân ngoài 70 tuổi chia sẻ rằng kể từ khi Huế có Festival, các làng nghề được đánh thức, du khách tìm đến nhiều hơn nên nghề tranh gia truyền có thêm nhiều việc để làm. Ngoài dòng tranh thờ cúng truyền thống, gia đình ông sáng tạo thêm nhiều mẫu tranh trang trí để phục vụ du khách mua làm quà lưu niệm.
Tuy nhiên, tính kỹ, vẫn thấy nghề truyền thống không đảm bảo kinh tế gia đình, nên ông còn phải làm thêm hoa màu, làm ruộng. Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước kể, những năm sau giải phóng (1975), nghề làm tranh làng Sình gặp nhiều khó khăn. "Lúc đó, những người làm tranh phục vụ việc thờ cúng bị xem là truyền bá mê tín dị đoan, các mộc bản tranh bị tịch thu chẻ làm củi. Thời điểm đó, tui cũng đâm liều. Nghĩ đây là một nghề của cha ông để lại, nếu để mất sẽ có tội với tổ tiên, tui lén đào căn hầm và chôn các bản khắc gỗ. Làm ruộng không đủ ăn, đêm đêm tui lại lén xuống hầm thắp đèn làm tranh. Tranh làm xong, lấy dây buộc vào lưng rồi mặc áo quần vào đưa lên thành phố hay vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... để bán. Nhờ vậy mà tôi đã giữ được một bộ khuôn in mộc bản qua những năm tháng gian nan. Bộ khuôn in này sau đó tôi đã hiến tặng cho Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế", ông kể.
Đất nước đổi mới, đời sống kinh tế phát triển và nhận thức cũng dần cởi mở hơn, những người làm tranh làng Sình đã tìm mọi cách khôi phục nghề cũ, nhất là những lúc nông nhàn.
Nắm giữ bí quyết chế màu sò điệp
Là hậu duệ đời thứ 9 của một dòng họ có nghề làm tranh dân gian làng Sình, nghệ nhân Kỳ Hữu Phước là người duy nhất còn nắm giữ kỹ thuật làm giấy và pha chế màu tự nhiên từ cây vang, cây hòe... Đặc biệt là bí quyết chế màu từ con sò, con điệp.
Theo gia phả của dòng họ Kỳ ở làng Sình, khoảng cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15, cùng dòng người theo chân chúa Nguyễn vào đất Thuận Hóa lập nghiệp, ông Kỳ Hữu Hòa đã mang theo nghề làm tranh giấy mộc bản đến làng Sình định cư. Ông Hòa được coi là ông tổ nghề tranh làng Sình.
Mộc bản để in tranh làng Sình không phải ai cũng có thể làm được. Chỉ có ông tổ hoặc những nghệ nhân tài hoa nhất của làng Sình mới có thể khắc để giữ đúng bản sắc, và sau đó lưu truyền cho hậu bối. Mỗi bức tranh là một khuôn gỗ hoàn chỉnh, người làm tranh dùng mực màu đen phết lên mộc bản, rồi dùng giấy dó in thành bức tranh thô. Bức tranh đem phơi cho khô mực, rồi tỉ mẩn dùng các loại màu tự pha chế để vẽ họa tiết lên tranh.
Sự khác biệt của tranh làng Sình với các dòng tranh dân gian khác chính ở nét vẽ và bố cục còn rất thô sơ, hồn nhiên, đậm chất làng quê. Khi sáng tác một bức tranh, mộc bản chỉ giữ vai trò làm khuôn và in màu chính (thường là màu tím chàm). Những màu sắc còn lại được nghệ nhân vẽ bằng tay, nên không bức tranh nào giống bức nào. Mỗi bức đều "mang" tâm trạng của nghệ nhân lúc đó. Tranh làng Sình có gam màu gần giống với tranh pháp lam tại các kiến trúc kinh thành Huế: hòa sắc giữa vàng với chàm, đỏ với bích ngọc, xanh với hỏa hoàng, phỉ thúy với hổ phách...
Từ xưa, tranh dân gian làng Sình có thể sánh ngang với các dòng tranh Kinh Bắc như Đông Hồ, Kim Hoàng, Hàng Trống. "Mỗi bức tranh làng Sình là một khuôn gỗ hoàn chỉnh với những hoa văn, hình thù khác nhau. Vậy nên, trước khi in tranh, người làm phải tạo ra được mộc bản. Công việc này đòi hỏi những người thợ phải có tay nghề cao mới có thể chế tác ra những mộc bản mang đúng bản sắc và có thể lưu truyền cho hậu bối", nghệ nhân Kỳ Hữu Phước tâm sự.
Theo nghệ nhân, hiện nay dòng tranh dân gian của ông đã phát triển gồm 5 dòng: tranh trang trí, tranh lưu niệm, tranh thờ cúng (bát âm), tranh trò chơi và tranh 12 con giáp. Theo thời gian, ở làng Sình hiện có hơn 40 hộ đang theo nghề. Để sản phẩm thêm đa dạng, các hộ còn làm hoa giấy ngũ sắc, sen giấy và các sản phẩm lưu niệm.
Nếu sử dụng đúng loại giấy dó và các màu truyền thống, đòi hỏi phải chế tác công phu qua nhiều công đoạn, tốn kém công sức và thời gian, nên bây giờ người làm tranh làng Sình dần chuyển sang sử dụng các loại màu công nghiệp và giấy in báo để hạ giá thành sản phẩm. Đây chính là lý do khiến kỹ thuật chế tác giấy dó và màu truyền thống dần mai một.
Cả làng Sình hiện chỉ còn duy nhất nghệ nhân Kỳ Hữu Phước nắm giữ và biết cách làm giấy dó cũng như pha chế các màu truyền thống. Làng Sình có nhiều nghệ nhân làm được tranh, nhưng riêng gia đình ông có 3 thành viên được UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế công nhận là "nghệ nhân tranh dân gian làng Sình". Ngoài ông còn có vợ, bà Trần Thị Gái, và con trai Kỳ Hữu Hải.
Theo Thanh niên