Ký ức không thể nào quên
Trong căn nhà nhỏ ở số 7, ngõ 18, đường Nguyễn Văn Trỗi, thành phố Vinh, một bảo tàng nhỏ lưu giữ rất nhiều kỷ vật cuộc đời chiến đấu không ngừng nghỉ của ông trong suốt 2 cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ…
Ở tuổi 95, người chiến sĩ đặc công biệt động thành này vẫn nhớ rõ từng ngày đã qua. Những trận đánh ác liệt, những đêm dò đường nguy hiểm, những đồng đội hy sinh bên mình, những giây phút tương phùng đầy nước mắt… những khoảnh khoắc ấy vẫn còn in đậm trong ký ức của ông, thổn thức trong từng kỷ niệm. Và nỗi nhớ như càng quay quắt hơn với ông khi nghe lại khúc khải hoàn miền Nam chiến thắng mà nhiều người bạn sát cánh cùng ông ngày ấy đã không còn nữa…
Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ rất nhỏ, ngày 10/1/1926, Lê Văn Hinh được ông Sáu Lầu (Cao Văn Lầu) tìm thấy trong một căn lều trống ở làng An Thới Đông, Núi Trầu (Hà Tiên), nên đã đem về nuôi dưỡng và đặt tên là Cu Nhỏ. Từ đó, Cu Nhỏ cũng được khai sinh vào ngày ông Sáu Lầu tìm thấy.
Vào những năm 30 của thế kỷ trước, cha nuôi Sáu Lầu thoát ly để hoạt động cách mạng. Vì vậy, Cu Nhỏ phải lưu lạc lên Sài Gòn ăn xin. Sau đó, Cu Nhỏ bị lừa bán sang một trại trẻ ở Campuchia. Như những đứa trẻ khác, khi được bán vào trại, Cu Nhỏ được dạy võ, cưỡi ngựa, ném lao… Thời gian thắm thoắt 10 năm trôi qua ở trại, Cu Nhỏ vừa kịp trở thành chiến binh.
"Năm đó là năm 1940, tôi tròn 16 tuổi, trong một hôm ở trại tôi tình cời nghe tin mình sẽ bị đưa vào hoàng cung Campuchia làm thái giám, tôi quá sợ hãi, tìm đường bỏ trốn trong một buổi đi bắt rắn. Suốt 10 ngày đêm đi bộ trong rừng sâu từ lãnh thổ Campuchia về khu rừng U Minh Hạ, Việt Nam là những ký ức khủng khiếp nhất đối với tôi. Đi giữa rừng, gặp cái gì là ăn nấy, từ lá cây, cỏ dại đến ếch, nhái..." Cu Nhỏ - Lê Văn Hinh kể lại.
"Khi rời khỏi rừng, tôi đói xỉu ngất đi. May mắn thay đã được 4 người lạ cứu tỉnh, cho ăn uống. Lúc này, tôi đã hoàn toàn quên đi tiếng mẹ đẻ và chỉ nói được tiếng Campuchia. Trong 4 ân nhân đó thì có 1 người nói tiếng Campuchia rất giỏi và hỏi cặn kẽ thân thế của tôi. "Ông hỏi cháu có muốn đi theo hoạt động cách mạng cứu dân, cứu nước không? – thế rồi tôi đồng ý".
Về Việt Nam, Cu Nhỏ được gặp lại cha nuôi Sáu Lầu tại căn cứ rừng U Minh Hạ, được theo chân các bác Tô Ký, Dương Bạch Mai, Phạm Văn Bạch, Hoàng Lê Kha và trở thành liên lạc cho lãnh đạo nghĩa quân Nam Kỳ khởi nghĩa, đánh thành Gia Định. "Hồi đó tôi không biết chữ nhưng các vị này thấy tôi nhanh nhẹn, tháo vát nên cho vào làm liên lạc cho nghĩa quân Nam Kỳ khởi nghĩa. Tôi được cấp một con ngựa để làm phương tiện đi lại"–ông Hinh kể.
Ngày 23-9-1945, Cu Nhỏ nhập ngũ vào tiểu đoàn Trương Định thuộc Tỉnh đội Gò Công, sau đó được điều sang Đội cảm tử, Tiểu đoàn 307, chiến đấu chống Pháp ở chiến trường Tây Nam bộ. Một trong những "chiến công" của Cu Nhỏ thời kỳ này đó là giúp đỡ bà Nguyễn Thị Thập – một trong những thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa. Khi trên đà tiến công, bà Nguyễn Thị Thập chuyển dạ sinh con. Cu Nhỏ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cõng bà Thập về căn cứ sinh nở an toàn.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Cu Nhỏ mất liên lạc với tổ chức. Không mục tiêu định hướng, Cu Nhỏ trở về Sài Gòn mưu sinh trên hè phố, rồi thi đấu võ đài. Năm 1942, Cu Nhỏ trở lại Campuchia thi đấu võ thuật và giành chiến thắng, được cấp bằng võ sĩ Đông Dương.
Cách mạng tháng Tám nổ ra, Cu Nhỏ hòa theo dòng người cướp chính quyền rồi tình nguyện nhập Vệ quốc đoàn. Cu Nhỏ vừa tham gia huấn luyện cho bộ đội vừa chiến đấu trong các tiểu đoàn Trương Định, tiểu đoàn 307. Cu Nhỏ đã tham gia các trận đánh đồn Sa Tiên ở Tháp Mười, cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.
Năm 1948-1949, Cu Nhỏ cùng một nhóm chiến sỹ đi bộ 7 tháng trời trong rừng và may mắn được anh hùng Đinh Núp giúp đỡ, tổ chức giải cứu cho ông Dương Bạch Mai cùng 10 tử tù chính trị khác tại nhà tù Đắc Tô. Sau khi đánh hạ nhà tù Bà Rá (Phước Long) giải cứu được 200 chiến sĩ cách mạng nhưng không có đồng chí Dương Bạch Mai (do bị chuyển trại giam lên Kon Tum), đội cảm tử quyết định băng rừng từ Đông Nam Bộ lên Kon Tum.
Sau 2 tháng luồn rừng, vượt núi, đội cảm tử đã đến được Kon Tum. Nhưng lúc này 6/10 thành viên đã mất vì đói, bệnh, rừng thiêng nước độc. 4 chiến sĩ cảm tử đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của anh hùng Núp và bà con, phối hợp cùng bộ đội địa phương cứu được đồng chí Dương Bạch Mai cùng 10 tù chính trị khác ở nhà tù Đắc Tô ngay trước giờ bị địch đưa đi hành quyết.
Sau cuộc giải thoát này, Cu Nhỏ lấy tên hai chiến sĩ đã mất trong đội cảm tử tên Lê và Văn làm họ, lấy con sông Hinh ở quê cha Bình Định làm tên… Năm 1952, với nhiều chiến công, Lê Văn Hinh được về chiến khu D dự Liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua cụm 21 tỉnh Nam Bộ, là một trong 8 chiến sĩ thi đua toàn quốc đầu tiên.
Ngày 5/10/1954, chiến sỹ Lê Văn Hinh bị thương ở chân được đồng đội khiêng đi cùng đoàn thương binh hơn 1.000 chiến sỹ hành quân tập kết ra Bắc. Sau khi điều trị, ông được phân công về Tiểu đoàn 5, Sư đoàn 338 làm giáo viên tham gia huấn luyện."Mang trên mình 7 vết thương nên tôi phải mất khá nhiều thời gian điều trị tại trại 14, Hà Nội. Thời gian dưỡng thương ở đây, tôi may mắn được 3 anh em cùng phòng dạy chữ, biết đọc, biết viết thành thạo"– ông Hinh nhớ lại. Năm 1957, ông được cấp trên điều về làm nhiệm vụ huấn luyện võ thuật tại Tiểu đoàn đặc công QK4. Tại đây, ông gặp gỡ và cưới cô công nhân nhà máy điện Vinh, Nguyễn Thị Bưởi.
Giờ khắc lịch sử vô hiệu hóa "hàng rào điện tử Dinh Độc Lập"
Tháng 2/1962, trước yêu cầu của tình hình mới, Lê Văn Hinh được giao nhiệm vụ sang Lào giúp nước bạn diệt phỉ Vàng Pao. Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, được triệu tập về nước và trở lại chiến trường Nam Bộ, tham gia hoạt động với nhóm tình báo của nữ Anh hùng Đinh Thị Vân ở nội thành Sài Gòn với mật danh H5. Hoạt động ở nội thành với mật danh H5 dưới nhiều danh phận: lái xe, cảnh sát, nghệ sĩ cải lương, hộ lý…, Lê văn Hinh đã lập được nhiều chiến công vang dội. Năm 1975, trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn, sự kiện quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, buộc Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện, có một phần công lao của Lê Văn Hinh.
Trong vai "thiếu úy cảnh sát dã chiến", ngày 18/4, ông được cử vào làm bảo vệ khu vực Dinh Độc lập. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, đoàn xe tăng của quân giải phóng tiến đến cổng Dinh nhưng không thể vào hay húc đổ hàng rào được vì tất cả đã bị cài điện. Ngay lập tức, viên "thiếu úy cảnh sát dã chiến" trực tiếp trà trộn vào hàng ngũ của địch, tìm gặp một Thiếu tá cảnh sát ngụy - người đang giữ chìa khóa hệ thống điện trong Dinh Độc lập. Hai bên không hề biết nhau nhưng sau khi thuyết phục "người anh em", toàn bộ cầu dao lớn, nhỏ trong trung tâm đầu não cuối cùng của chính quyền ngụy Sài gòn đã bị ngắt hoàn toàn. Đoàn xe tăng của quân giải phóng húc đổ cổng chính và cổng phụ, tiến vào sân Dinh Độc lập, buộc Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện…
Cuối năm 1975, ông được ra Bắc an dưỡng theo chế độ của thương binh 2/4. Những vết thương cũ có, mới có từ cả 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ hành hạ khắp cơ thể và cả 1 mảnh đạn ở trong đầu vẫn chưa lấy ra được. Nhưng ông quyết định xin về nhà bên dòng Lam ở TP Vinh, Nghệ An - nơi có vợ và 5 con nhỏ.
Giờ đây, ở tuổi 95, ông vẫn minh mẫn, trí nhớ tốt. Trong căn nhà nhỏ ở phường Bến Thủy, TP Vinh, có một góc riêng ông dành để cất giữ kỷ niệm suốt cuộc đời kỳ lạ của mình. Phía trên, ông treo lá cờ giải phóng miền Nam sao vàng nền xanh và đỏ. Bên dưới là ảnh Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, huy hiệu lính Mỹ "hộ thân" trong thời gian làm biệt động, sách báo, tấm bản đồ Đô thành Sài Gòn và treo tranh vẽ xe tăng tiến vào Dinh Độc lập.
Với những cống hiến suốt hai cuộc kháng chiến, cựu đặc công Lê Văn Hinh vinh dự được Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương chiến sỹ giải phóng, Huân chương chiến sỹ vẻ vang, Huân chương chiến công hạng 2...
Nói về mình, cựu chiến sĩ đặc công Lê Văn Hinh cho rằng: "Tôi không phải là anh hùng. Tôi chỉ là một đứa trẻ mồ côi, được cách mạng nuôi dưỡng mới thành người. Người xứng đáng danh hiệu anh hùng là vợ tôi. Bà đã một mình nuôi dạy con khôn lớn trong khi tôi đi chiến đấu, chăm sóc tôi trong hàng chục năm đau yếu và đến tận bây giờ bà vẫn chăm từng bữa cơm, giấc ngủ cho tôi không sai một phút một giờ".
Đình Nguyên