Liệt sĩ – Nhà giáo Lê Thị Thiên sinh năm 1945 tại ấp Bà Bèo, xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, là con thứ 6 trong gia đình. Bố chị là ông Lê Văn Như, mẹ là bà Nguyễn Thị Hò. Cả hai ông bà đã được nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng ba vì đã có nhiều công lao trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông bà đã lần lượt tiễn đưa những người con yêu dấu của mình lên đường chiến đấu, trong đó có 2 người không trở lại. Đó là liệt sĩ Lê Văn Tính và Liệt sĩ - Nhà giáo Lê Thị Thiên.
Lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo của vùng sông nước miền Tây, sớm chứng kiến cảnh càn quét, bắn giết, đánh đập của Mỹ ngụy, trong lòng cô gái Lê Thị Thiên sớm nhen nhóm ý thức phản kháng và lòng căm thù quân xâm lược. Có lần đi học về, cô tận mắt thấy cảnh lính Mỹ đánh đập cha mẹ mình ngay tại nhà để buộc ông bà khai ra nơi ẩn náu của cán bộ cách mạng .
16 tuổi, Lê Thị Thiên nổi tiếng là một cô gái xinh đẹp và học giỏi trong vùng, bà con lối xóm, bạn bè đều rất yêu quý. Tuy vậy trong lòng chị chỉ nung nấu một quyết tâm lên đường đánh Mỹ để trả thù cho gia đình, làng xóm, quê hương.
Ngày 8/2/1962, khi vừa 17 tuổi, Lê Thị Thiên xung phong lên đường nhật ngũ. Sẵn có kiến thức, chị được cử đi học để hoàn chỉnh chương trình phổ thông. Tháng 12/1962, chị được điều động về một đơn vị ở miền Đông. Từ đây chị say sưa công tác và hàng ngày vẫn tranh thủ thời gian để ghi nhật ký. Cuốn nhật ký “Thế hệ Hồ Chí Minh” ra đời từ đây.
Tháng 5/1964, Lê Thị Thiên được gọi về Trung ương Cục học lớp sư phạm tại trường Giáo dục Tháng Tám, khóa 2. Trong 9 tháng học ở trường, Thiên đã miệt mài học tập tiếp thu kiến thức để ra trường truyền dạy cho cán bộ chiến sĩ.
Tháng 2/1965, sau khi tốt nghiệp, trở lại chiến trường hoạt động, chị đã đem hết tâm huyết của mình vào công tác giảng dạy và sẵn sang cầm súng chiến đấu. Hình ảnh người nữ giáo viên đầu đội mũ tai bèo, miệng cười tươi, bên mình cài lựu đạn trong tư thế sẵn sàng đánh địch còn đậm mãi trong tâm trí các giáo viên, học viên thời ấy.
Ngày 10/10/1966, trong một trận vây ráp của địch, Lê Thị Thiên đã cầm súng chiến đấu. Trận chiến không cân sức, cô giáo Lê Thị Thiên đã anh dũng hy sinh trong tư thế của người chiến sĩ. Máu của chị đã nhuộm đỏ thêm màu đất miền Đông.
Liệt sĩ Lê Thị Thiên được tặng Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng III và được truy tặng Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng II.
46 năm, sau ngày nhà giáo Lê Thị Thiên hy sinh, đồng đội, đồng nghiệp và cả cộng đồng xã hội đã tìm được chị, đưa chị về với người thân tại quê nhà. Có được điều kỳ diệu này, một phần rất quan trọng là nhờ những trang viết của chị trong cuốn nhật ký “ Thế hệ Hồ Chí Minh”.
Sau khi chị hy sinh, gia đình được nhận giấy báo tử, nhưng không biết hài cốt của chị ở đâu. Đó là nỗi trăn trở của người thân liệt sĩ từ thời chiến đến thời bình.
Năm 2012, Báo Bình Dương tiếp nhận quyển nhật ký “Thế hệ Hồ Chí Minh”. Trân trọng từng trang nhật ký, Báo Bình Dương cùng các cơ quan của 2 tỉnh Bình Dương và Tiền Giang nỗ lực tìm tác giả. Qua đó xác định Liệt sĩ - Nhà giáo Lê Thị Thiên là người viết quyển nhật ký tại chiến trường miền Đông Nam bộ.
Được tìm thấy từ lòng đất sau gần nửa thế kỷ, quyển nhật ký vỏn vẹn 35 trang giấy học trò và 6 bức ảnh mà chứa chan ký ức về đồng đội một thời cùng chiến đấu, hy sinh. Những dòng chữ đầu tiên được viết vào tháng 12/1962 và trang cuối cùng của quyển nhật ký được viết vào ngày 20/10/1966.
“Thế hệ Hồ Chí Minh” là tiêu đề của quyển nhật ký mà tác giả ghi ở trang đầu. Xuyên suốt quyển nhật ký, chị xác định cho mình một lý tưởng và quyết tâm cao từ những việc làm rất bình thường.
Ở những trang đầu quyển nhật ký, chị Thiên (tự xưng là M.) viết: “Tháng 12-1962: Rời mái trường trở về địa phương tham gia cách mạng. Vừa dạy học, vừa tham gia các mặt công tác kháng chiến ở địa phương. Tháng 5-1964: Được tin chuẩn bị đi dự lớp sư phạm ở R (họp ngày 30-5), rất phấn khởi về tư tưởng. Vì khi đi học sẽ có kiến thức, phục vụ cách mạng nhiều hơn.
Ngày 4-6-1964: Ngày giỗ ngoại. Qua lời khuyên của cậu, M. cố khắc sâu vào tư tưởng, cố gắng làm thế nào cho xứng đáng là đứa cháu của cậu, đứa con ngoan của ba má, đứa con ưu tú của Đảng. Ngày 22-6-1964: Rời gia đình lên đường học tập, M. có cảm nghĩ mới lạ. Khi học tập phải cố gắng với bổn phận của mình để xứng đáng là đứa con yêu của ba má, đứa em của các chị, đứa con của cách mạng, của Đảng”.
Tuy sống, học tập, chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt và ác liệt nhưng Lê Thị Thiên vẫn canh cánh bên lòng nỗi lo cho người thân và bà con quê nhà. “Được tin giặc càn bố xã nhà, M. cảm thấy buồn và lo lắng nhiều. Không biết bà con ở đây ra sao? Gia đình M. thế nào? Sốt ruột mong biết tin” (nhật ký ngày 16-7-1764). Và chị xác định “CĂM THÙ -> HÀNH ĐỘNG CÔNG TÁC HỌC TẬP TỐT”.
Khi đọc quyển nhật ký của Nhà giáo - Liệt sĩ Lê Thị Thiên, một cảm xúc giống nhau đến lạ thường giữa ý chí, hành động cùng lý tưởng cao đẹp của tuổi 20 lúc bấy giờ như của Bác sĩ - Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc là khát khao được cống hiến cho Tổ quốc.
Chị Thiên viết: “Đêm 1-1-1965: Đêm nay được nghe chú Năm nói chuyện tình hình thời sự, M. rất phấn khởi. Quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, ngày một nhiều hơn, vẻ vang hơn. M. phải nỗ lực trau dồi để tiến kịp bè bạn, giàu lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc và dám hy sinh tính mạng khi Tổ quốc cần đến… M. phải soi rọi bản thân, phải cần học tập thêm, tư tưởng luôn hướng đến lý tưởng cộng sản, chân lý của cách mạng.
“Ta hãy nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn - vì Tổ quốc”. Tuổi còn trẻ - Đời còn dài - Vì Tổ quốc - Nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn - Gạt bỏ tư tưởng cá nhân - Học tập trau chuốt nhiều hơn, tốt hơn…”.
Chị đặt ra mục tiêu cho mình “Chiến sĩ giết nhiều giặc, người giáo viên trên trận tuyến văn hóa cần nỗ lực nhiều hơn với vai trò, nhiệm vụ của mình mà Đảng, nhân dân đã giao cho. Ngày 8-1-1966: Tình hình động, giặc càn vào C2. Đây là lần đầu M. có nhiều ý nghĩ mới: Làm công tác gì cho phù hợp với tình hình giai đoạn hiện tại…?”. Chị luôn khao khát được hoạt động, được cống hiến ngay cả những lúc khó khăn, gian khổ nhất của cuộc chiến đấu: “Một tuần qua là thời gian lộ chết (nằm hầm). Rất mong tình hình trở lại bình thường để tiếp tục công tác. Không làm được gì, M. buồn nhiều…”.
Một chi tiết khác trong quyển nhật ký đã minh chứng thêm ý chí kiên định vững vàng của một chiến sĩ, một đảng viên trong những ngày chiến tranh ác liệt. Chị viết: “Chính trị là thống soái, nghiệp vụ là trung tâm, văn hóa là cơ sở” phải là người học trò nhỏ của quần chúng… (nhật ký ngày 27-2-1965).
Đọc và cảm nhận nhật ký “Thế hệ Hồ Chí Minh”, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết viết: “Tôi học tập nhiều ở những con người bình dị mà cao cả; tâm hồn của họ luôn trẻ trung trong sáng; lý tưởng cách mạng như ngọn đuốc rực cháy trong tim gan. Họ hết lòng yêu thương đồng chí, đồng bào; tính tự giác, tự phê bình, tự chịu trách nhiệm nghiêm túc, sâu sắc…”.
Phụ nữ Việt Nam