Quê bà nội ở làng Tây Giai, thuộc xã Vĩnh Tiến nằm ngay sát Thành nhà Hồ nên mỗi khi theo bà về quê, tôi lại được lũ trẻ làng này rủ chơi đánh trận giả trên những hào thành. Thời đó, lũ trẻ chúng tôi chia làm hai phe, lấy trâu làm ngựa, lấy lau làm cờ, lấy cổng thành phía Tây làm gianh giới chiến trận. Phe ở ngoài công thành bằng dây thừng, phe trong thành bảo vệ bằng cách ném bùn, dội nước.
Nhiều lần, tôi bị bong gân, trày xước chảy máu bởi trò chơi trận giả mà mãi đến sau này, khi lớn lên, học những trang sử thì mới biết, xung quanh hào thành này, hơn 600 năm về trước cũng đã xảy ra nhiều trận đánh vệ quốc đẫm máu oai hùng của cha ông.
Thời đó, cái thú nhất của lũ trẻ chúng tôi là đi đào dế quanh tường thành. Nhưng kỳ lạ thay, có hôm mãi đào mãi, dế đâu chẳng thấy, chỉ đào được viên bi đá to bằng quả bưởi, tròn xoe. Mang viên bi về khoe, bà bảo, đấy là đạn đá của ông Trừng đấy! Trong ý nghĩ not nớt thời ấy, tôi nghĩ đến trò súng chun và mường tượng ông Trừng phải là một vị thần cao siêu mới có thể sử dụng viên đạn đá to như thế!
Bốn cổng Thành nhà Hồ theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông, gọi là các cổng Tiền - Hậu - Tả - Hữu. Các cổng đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp hình múi bưởi, các phiến đá xây dài tới 7 m, cao 1,5 m, nặng chừng 15 tấn. Trong ảnh là Cổng Tiền, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,17 m. Ảnh: Thông Thiện
Toàn bộ mặt ngoài tường Thành nhà Hồ được ghép bằng những phiến đá xanh, xếp chồng khít lên nhau, có phiến dài tới hơn 6 m, ước nặng hơn 20 tấn. Theo các nhà khoa học ước tính, tổng khối lượng đá được sử dụng ghép, xây Thành nhà Hồ khoảng 20.000 m3. Ảnh: Công Đạt
Chuyên mục Du lịch của trang web Đài truyền hình CNN (Mỹ) đánh giá, việc UNESCO lựa chọn ngôi cổ thành này để trao “danh hiệu danh giá” bởi 2 lý do: một là nhà Hồ chỉ tồn tại trong 7 năm (1400 - 1407) trong một giai đoạn nhiều biến động của lịch sử Việt Nam, hai là Thành nhà Hồ là “mẫu mực nổi bật cho phong cách mới của kinh thành Đông Nam Á”. Năm 2015, CNN đã xếp Thành nhà Hồ là "một trong 21 di sản nổi bật và vĩ đại nhất thế giới". Ảnh: Thông Thiện
Lớp ngoài tường thành xây dựng bằng những khối đá xanh, được đẽo gọt và ghép một cách tài tình, khối đá lớn nhất nặng tới khoảng 26 tấn. Các khối đá có kích thước to lớn được thấy ở các bức tường phía Tây, phía Nam và phía Đông. Ảnh: Công Đạt
Các nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá, kiến trúc của bốn cổng chính Thành nhà Hồ rất khoa học, với các phiến đá được đục đẽo vuông vức, công phu xếp đan xen theo hình múi bưởi để tránh rung chấn lớn như động đất. Giữa các phiến đá xây thành không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm qua dù chịu rất nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Ảnh: Công Đạt
Lớp trong của tường thành là lũy đắp bằng đất sét trộn cát sỏi, nện kỹ từng lớp, có độ dốc thoải dần vào phía trong thành, dày khoảng 60cm - 70cm lại có một lớp cát mỏng trộn với sỏi. Ảnh: Thông Thiện
Hoàng thành được xây dựng trên bình đồ có hình gần vuông. Chiều Bắc - Nam dài 870,5 m, chiều Đông - Tây dài 883,5 m. Nối liền với cửa Nam là con đường Hoa Nhai (đường Hoàng Gia) lát đá dài khoảng 2,5 km hướng về đàn tế Nam Giao (nơi nhà vua tế lễ) được xây dựng vào tháng 8/1402. Ảnh: Công Đạt
Phóng viên CNN mô tả khi tác nghiệp tại Thành nhà Hồ rằng: "... phần của tường thành bị lún xuống hoặc bị cỏ cây trùm lấn - điều không thể tránh khỏi, nhưng như thế lại “tạo cho di tích vẻ huyền bí”. Xung quanh thành là những cánh đồng ngô, lúa và con đường đất trải dài như không hề chịu ảnh hưởng của thời gian...". Ảnh: Công Đạt
Trục đường chính, phần ở khu vực Cửa Nam của thành, được thư tịch cổ gọi là đường Cái Hoa, Hoa Nhai hay Hòe Nhai. Cuộc khai quật khảo cổ ở khu vực này đã phát hiện dấu tích của con đường cổ chạy từ trong thành, qua Cửa Nam về núi Đốn Sơn. Ảnh: Công Đạt
UBND tỉnh Thanh Hóa xác định, hoạt động du lịch chính là con đường đưa khách tham quan đến với Di sản Thế giới Thành nhà Hồ, để làm cho Di sản có giá trị đúng với chính nó, làm cho di tích sống lại với thời gian. Ảnh: Công Đạt
Cũng mãi sau này khi đọc sách, tôi mới biết ông Trừng chính là nhân vật lịch sử Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446), chính là kiến trúc sư của tòa thành kỳ vĩ này và những viên đạn đá đó để dùng bắn súng thần cơ sang pháo – Một loại vũ khí đã nhiều phen làm quân xâm lược khiếp sợ.
Điều bí ấn mãi mãi đối với tôi chính là đôi rồng đá bị mất đầu đã được người đi làm đồng trong hào thành đào phát hiện và dựng ở đường cái nối Cổng Tiền sang Cổng Hậu. Mang thắc mắc hỏi thì bà bảo, đôi rồng của ông Hồ Quý Ly, đấy là rồng thiêng, cháu không được vẽ bậy, hoặc cưỡi lên đôi rồng ấy!
Rồi bà kể tiếp rằng, dân làng Tây Giai vẫn lưu truyền nhau câu chuyện, làng hay bị hỏa hoạn nên có thầy thầy phong thủy đi qua bảo rằng, đôi rồng đá ấy hướng về làng thường phun lửa nên làng hay bị cháy. Từ đó, đầu đôi rồng không còn. Trong ý nghĩ non nớt của đứa trẻ lên năm, tôi nghĩ Hồ Quý Ly phải là vị thần oai hùng lắm mới cá thể cưỡi rồng đá phun lửa đến cháy nhà.
Sau này đọc lịch sử, tôi mới biết, Hồ Quý Ly (1336 – 1407) chính là vị vua sáng lập nên nhà nước phong kiến Đại Ngu, là người ra lệnh xây dựng tòa thành và có nhiều cải cách tiến bộ mà đến bây giờ đã được thế giới công nhận. Và trong dã sử, có nhiều thuyết nhắc đến đôi rồng đá bị cụt đầu ấy. Có thuyết nói rằng, sau khi giặc Minh xâm lược nước ta, đã chặt đầu rồng, lại có sách nói, đôi mắt rồng là hai viên ngọc quý nên bị người ta chặt đầu lấy ngọc.
Tiến sĩ Phạm Văn Đấu (Hội sử học Thanh Hoá) đánh giá đôi rồng đá ở Thành nhà Hồ thuộc loại tượng rồng lớn và đẹp nhất hiện còn lại ở Việt Nam. Đôi rồng thể hiện nghệ thuật chạm khắc thời Trần lúc hưng thịnh với đặc điểm khỏe khoắn, đầy đặn. “Sử cũ không ghi chép, cũng không ai biết đôi rồng đá bị mất đầu từ bao giờ, nhưng giả thiết sau khi xâm lược nước ta, quân Minh cho chặt đầu rồng mang về báo công được nhiều người chấp nhận”, tiến sĩ Đấu cho biết. Ảnh: Thông Thiện
Cặp rồng đá được chạm khắc rất tỉ mỉ. Thân rồng thon nhỏ dần về phía đuôi, uốn bảy khúc, phủ kín vảy. Rồng có bốn chân, mỗi chân ba móng với các túm lông lượn mềm mại. Đầu rồng hiện đã bị mất nhưng vẫn còn phần bờm dài lượn chín nếp.. Ảnh: Công Đạt
Tại cổng thành phía Tây còn dấu tích bài thơ chữ Hán khắc trên đá theo thể thất ngôn bát cú của Tri huyện Nguyễn Dao làm vào mùa Xuân năm Quí Dậu niên hiệu Bảo Đại (1923) có nội dung ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên quanh vùng Thành nhà Hồ. Ảnh: Công Đạt
Trong những lần khảo cổ xung quanh khu vực Thành nhà Hồ, các nhà khoa học tìm thấy hàng trăm viên bi đá lớn (bằng quả bóng đá), nhỏ (bằng quả cầu mây). Việc tìm thấy những viên bi đá này giúp củng cố giả thiết người thợ khi xưa đã dùng chúng như con lăn để tời đá từ vùng khai thác đến nơi xây dựng. Kết hợp với tời và đắp đất, người ta đã đưa những phiến đá lên cao để xây thành. Ảnh: Công Đạt
Năm 2015, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành nhà Hồ phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam khai quật khu vực Hào thành. Sau hơn 2 tháng khai quật trên diện tích 2.040 m2, các nhà khoa học phát hiện nhiều hiện vật bằng đất nung như ngói mũi sen, gạch bìa, trong đó nhiều viên có in, khắc tên địa danh sản xuất, niên đại thời Trần - Hồ. Ảnh: Công Đạt
Trong những cuộc khai quật khảo cổ gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện rất nhiều công trình, hiện vật đặc biệt tại Di sản Thành nhà Hồ như tìm thấy con đường đá cổ đẹp nhất Việt Nam với hơn 600 năm tuổi; nền gạch Gò Ngục cách Hoàng thành về phía Tây - Nam 150 m. Ảnh: Công Đạt
Ngày đó, tôi với thằng Ngọc, người làng Tây Giai có một cuộc tranh cãi quyết liệt với chủ đề làm cách nào để xây tòa thành đá này. Tôi thì đưa ra chủ kiến, cái ông Hồ Quý Ly, cưỡi rồng đá phun lửa cháy làng ấy là người đẽo gọt những tấm đá to đùng rồi xếp lại với nhau thành tòa thành. Thằng Ngọc thì bảo, nó thấy người ta đẽo đá rồi, phải có rất nhiều người, đục đẽo đá núi Vàng (một ngọn núi ở huyện Vĩnh Lộc) thành những khối đá vuông, nhưng làm thế nào để xếp thành tòa thành thì nó không lý giải được. Nó bảo, lớn lên nó sẽ trả lời cho mà nghe.
Lũ con nít làng Tây Giai chúng tôi lớn lên, mỗi đứa mỗi ngã, đã quá nửa đời người nhưng không đứa nào theo đuổi nghành lịch sử để giải mã những bí ẩn của tuổi thơ.
Thành nhà Hồ là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam. Thành được Hồ Quý Ly cho xây vào mùa xuân năm 1397, còn gọi là Tây Đô (hay Tây Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long, Hà Nội). Nơi đây từng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa vào cuối triều Trần và kinh đô của nước Đại Ngu trong khoảng 7 năm, từ 1400 đến 1407. Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng thành. Theo sử sách ghi lại trong Hoàng thành có nhiều công trình như điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu... rất nguy nga, tráng lệ chẳng khác gì kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, trải qua hơn 6 thế kỷ tồn tại với rất nhiều tác động của thiên nhiên và con người, hầu hết công trình kiến trúc bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy. Ngày 27/6/2011, tại phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban di sản thế giới thuộc Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên Hợp Quốc (UNESCO) diễn ra tại thủ đô Paris (Pháp), Thành nhà Hồ đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Từ năm 2013 đến năm 2020, tỉnh Thanh Hóa đầu tư hơn 90 tỷ đồng thực hiện dự án Khai quật tổng thể Di sản văn hóa thế giới Thành nhà Hồ. Đây là cuộc khai quật quy mô lớn nhất từ trước tới nay tại di tích lịch sử đặc biệt này. |
Theo Báo Ảnh Việt Nam