leftcenterrightdel
Nghiên cứu vừa công bố của Hiệp hội Tim mạch Mỹ cảnh báo nguy cơ phụ nữ mắc các bệnh về tim mạch trong vòng 2 năm sau khi sinh con nếu họ bị trầm cảm lúc mang thai. Ảnh:GHP News 

Một nghiên cứu mới của Hiệp hội Tim mạch Mỹ cho biết những phụ nữ được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm khi mang thai có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn trong vòng 2 năm sau khi sinh so với những phụ nữ không mắc chứng trầm cảm.

Nguy cơ từ trầm cảm lúc mang thai

Theo nghiên cứu mới được công bố ngày 23/4 trên tạp chí của Hiệp hội Tim mạch Mỹ, người ta biết rằng trầm cảm có tác động bất lợi đến sức khỏe tim mạch trong dân số nói chung.

Cả đàn ông và phụ nữ bị trầm cảm đều có nhiều nguy cơ mắc bệnh tim trong cuộc sống sau này. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng khoảng 20% phụ nữ mang thai cũng bị trầm cảm.

Mặc dù vậy, trầm cảm trước khi sinh ít được chú ý như một yếu tố nguy cơ đặc biệt đối với bệnh tim mạch.

"Chúng ta cần coi việc mang thai như một cửa sổ cho sức khỏe trong tương lai", tiến sĩ y khoa Christina M. Ackerman-Banks, tác giả chính của nghiên cứu, trợ lý giáo sư sản khoa và y tế tại Đại học Y Baylor và Bệnh viện Nhi đồng Texas ở Houston, cho biết.

Tiến sĩ Ackerman-Banks cho hay các biến chứng khi mang thai, bao gồm trầm cảm trước khi sinh, ảnh hưởng đến sức khỏe tim mạch lâu dài. Giai đoạn sau sinh là thời điểm thích hợp để tư vấn và sàng lọc bệnh tim mạch cho sản phụ nhằm ngăn ngừa hậu quả này.

leftcenterrightdel
 Khoảng 20% phụ nữ mắc trầm cảm lúc mang thai nhưng ít người để ý đến nguy cơ mắc bệnh tim mạch sau khi sinh con ở những phụ nữ này. Ảnh:Adobe

Mối liên quan giữa trầm cảm trước khi sinh và việc phát hiện bệnh tim mạch sau sinh trong hai năm đầu tiên sau khi sinh là trọng tâm của cuộc điều tra này. Theo Hindustan Times, đây là nghiên cứu dựa trên dân số đầu tiên thực hiện điều này.

Gần 100.000 phụ nữ đã sinh con ở Maine từ năm 2007 đến 2019 là đối tượng phân tích dữ liệu từ cơ sở dữ liệu All-Payer Claims Database thuộc Tổ chức Dữ liệu Sức khỏe Maine. Nghiên cứu nhằm mục đích tính toán rủi ro tổng thể khi nhận được chẩn đoán bệnh tim mạch mới trong vòng hai năm sau khi sinh.

Nhóm nghiên cứu điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn như hút thuốc, tuổi tác lúc sinh con và các bệnh trước khi mang thai, bao gồm tiểu đường, trầm cảm, cao huyết áp, tiền sản giật. Từ đó, họ ước tính được nguy cơ mắc 6 bệnh tim mạch chính - suy tim, bệnh tim thiếu máu cục bộ, rối loạn nhịp tim/ngừng tim, bệnh cơ tim, đột quỵ và huyết áp cao - trong vòng hai năm sau khi sinh.

Phân tích cho thấy nguy cơ mắc bệnh tim mạch tích lũy ước tính đối với suy tim, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh cơ tim, rối loạn nhịp tim/ngừng tim hoặc huyết áp cao mới được chẩn đoán trong vòng hai năm sau khi sinh ở những người bị trầm cảm cao hơn đáng kể so với những người không bị trầm cảm.

Tiến sĩ Ackerman-Banks cho biết: "Ngay cả sau khi loại trừ những người bị rối loạn tăng huyết áp khi mang thai, những người bị trầm cảm khi mang thai vẫn có nguy cơ mắc bệnh thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, đột quỵ, bệnh cơ tim và tăng huyết áp mạn tính mới sau sinh cao hơn đáng kể".

leftcenterrightdel
Nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ bị trầm cảm lúc mang thai nên khám sức khỏe tim mạch sau khi sinh con. Ảnh:Vox.  

Căn cứ để thúc đẩy biện pháp phòng ngừa bệnh tim mạch

Theo Bản cập nhật Thống kê năm 2023 của Hiệp hội Tim mạch Mỹ, bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong liên quan đến thai kỳ ở các quốc gia có thu nhập cao, bao gồm cả Mỹ. Các tác giả nghiên cứu lưu ý rằng các yếu tố khác liên quan đến thai kỳ góp phần vào sự phát triển của bệnh tim mạch có thể bao gồm tình trạng viêm mạn tính và tăng các hormone liên quan đến căng thẳng.

"Tôi khuyên bất kỳ ai được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm trước khi sinh nên nhận thức được tác động đối với sức khỏe tim mạch lâu dài của họ, thực hiện các bước để sàng lọc các yếu tố nguy cơ khác và tham khảo ý kiến bác sĩ chăm sóc chính nhằm thực hiện các chiến lược phòng ngừa bệnh tim mạch", tiến sĩ Ackerman-Banks nói.

Theo bà, những sản phụ này cũng nên được kiểm tra bệnh tiểu đường type 2, cholesterol, đồng thời thực hiện chế độ tập thể dục, ăn uống lành mạnh và bỏ thuốc lá.

Các tác giả thừa nhận rằng mặc dù dân số nghiên cứu lớn, kết quả dựa trên dữ liệu yêu cầu y tế, nghĩa là không thể xác nhận chẩn đoán các tình trạng. Ngoài ra, họ không có thông tin về chủng tộc, dân tộc và mức độ hoạt động thể chất.

Theo nhóm tác giả, các nghiên cứu trong tương lai thử nghiệm các biện pháp can thiệp tích hợp vào chăm sóc trước khi sinh và sau sinh có thể giúp khắc phục những hạn chế này và đưa ra khuyến nghị phù hợp hơn.

Theo zingnews