Những ngôi nhà đất thời nay Những gia đình có 2 người con trai trở lên, sau khi lấy vợ cho con, bố mẹ sẽ làm nhà cho con cái ra ở riêng. Từ đó, ngôi nhà sẽ gắn bó với người đó cho tới khi lìa đời.
Người Nùng Phàn Slình quan niệm được chút hơi thở cuối cùng trong căn nhà của mình là một điều gì đó rất thiêng liêng, vậy nên dù lúc ốm đau có đi viện khám chữa, nhưng khi biết không qua khỏi, người ta thường xin bệnh viện cho về nhà để được nhắm mắt trong ngôi nhà của mình.
Nhà của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn chủ yếu là nhà đất, với 2 loại chủ yếu là nhà trình tường và nhà gạch mộc. Cả 2 loại hình nhà đều được làm từ nguyên liệu trong tự nhiên sẵn có như bùn đất, đá, gỗ…
Mái nhà đất được lợp bằng cỏ tranh hoặc mái ngói âm dương, cách lợp cứ 1 hàng ngửa 1 hàng úp, rìa của hàng nọ phủ lên lòng của hàng kia, người ta phải lợp làm sao cho ngói hai hàng ngoài cùng phải úp.
(Ảnh Dương Công Bao).
Trước đây, để làm một ngôi nhà truyền thống, từ khi chuẩn bị nguyên liệu đến khi hoàn thành phải mất vài tháng đến nửa năm. Trong thời gian làm nhà, mọi người trong cộng đồng bản đều cố gắng giúp đỡ hoặc là bằng vật chất, hoặc là bằng ngày công, với tinh thần “bát mưng bát câu” (có đi có lại). Qua đó, việc dựng nhà là phương tiện để người dân trong bản đoàn kết với nhau hơn.
Sau khi làm xong nhà, gia chủ sẽ làm lễ “khảu hờn mau” (vào nhà mới), với mục đích rước rửa vào nhà và dựng bàn thờ tổ tiên. Lễ vào nhà mới của người Nùng Phàn Slình bắt buộc phải do thầy cúng (tào, mo) tiến hành.
Đồng bào quan niệm, thầy cúng là người có sức mạnh siêu nhiên, có khả năng giao tiếp với thần linh. Ngoài ý nghĩa về mặt tín ngưỡng, lễ vào nhà mới còn mang ý nghĩa cố kết cộng đồng sâu sắc. Trong lễ vào nhà mới, gia chủ sẽ mời tất cả những người họ hàng, hàng xóm đã giúp đỡ gia đình trong quá trình làm nhà đến cùng ăn bữa cơm chia vui với gia đình. Khách mời tham dự lễ vào nhà mới đáp lại tình cảm của gia chủ bằng những lời chúc, những bài sli mừng nhà mới, ca ngợi vẻ đẹp của ngôi nhà và sự hiếu khách của gia chủ.
(Ảnh: Lý Viết Trường).
Trong bối cảnh hiện nay, kinh tế và văn hóa đang biến đổi mạnh mẽ, nhà cửa truyền thống đang mai một dần, thay vào đó là những ngôi nhà bê tông hiện đại. Việc bảo tồn hay phá bỏ nhà truyền thống để xây dựng những ngôi nhà hiện đại đang là bài toán khó, yêu cầu các nhà làm chính sách và người dân cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển.
Dân ca Sli của người Nùng Phàn Slình
Sli Nùng Phàn Slình có không gian diễn xướng rất phong phú: hát trong lao động; hát trong nghi lễ và các phiên chợ; hát trong sinh hoạt gia đình và các cuộc rượu... Mỗi không gian diễn xướng có các hình thức khác nhau. Trong phạm vi bài viết sẽ làm rõ hình thức hát trong đám cưới và hát giao duyên đối đáp của Sli Nùng Phàn Slình ở tỉnh Lạng Sơn.
Người Nùng nói chung và người Nùng Phàn Slình nói riêng rất thích hát và nghe hát Sli. Bằng ngôn ngữ trí tuệ, giàu hình ảnh, tình yêu mênh mông, Sli không chỉ miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, khỏe khoắn, tỏa ánh sáng diệu kỳ, tươi mới của thiên nhiên, quê hương, đất nước mà còn “ca ngợi những con người đẹp như những bông hoa và tự do như những cánh chim bay”. Đáp ứng yêu cầu của thời đại, không dừng lại ở góc độ truyền thống, các nghệ nhân Sli đã cố gắng sáng tác thêm nhiều bài mới với nội dung phong phú: Ca ngợi Đảng; Lãnh tụ; anh hùng dân tộc, quê hương đất nước; chống tệ nạn xã hội...
Lễ cưới của người Nùng Phàn Slình
Để tiến tới hôn nhân, người Nùng phải thực hiện trang trọng các nghi lễ như: Lễ so tuổi, Lễ dạm hỏi, Lễ dẫn cưới, Lễ đón dâu, Lễ lại mặt và một số tục lệ khác. Trong đó, Lễ cưới là một nghi lễ đặc biệt đã lưu truyền trong đời sống người Nùng qua nhiều thế hệ.
Lễ đầu tiên là “so tuổi”, trên cơ sở tình yêu của đôi bạn trẻ, nhà trai mang sang nhà gái một đôi quả cau để xin thông tin về ngày, tháng, năm sinh cô gái. Nếu hợp nhau, nhà trai đến nhà gái lần hai làm lễ dạm hỏi. Trong lễ dạm hỏi, nhà trai chọn một người làm ông mối, là người có gia đình và có cả con trai, con gái, có uy tín đại diện nhà trai bàn với nhà gái về việc hôn lễ. Nếu được gia đình nhà gái nhất trí, nhà trai sẽ hẹn ngày đến để làm lễ ăn hỏi. Sau lễ dạm hỏi là lễ ăn hỏi “Lảu nự”. Trong lễ ăn hỏi, hai bên gia đình bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến đám cưới như: lễ vật, ngày giờ đón dâu... Sau khi mọi công việc trên hoàn tất, hai bên gia đình sẽ bắt tay vào chuẩn bị cho lễ cưới.
Lễ cưới của người Nùng diễn ra với nhiều lễ nghi đặc sắc như: Khi đón dâu phải đúng thời gian ước hẹn; đoàn đón dâu của người Nùng thường là 6, 8 hoặc 10 người; Có Thày mo làm lễ trong đám cưới; Khi vào nhà, cô dâu phải dùng chân làm đổ bàn, trên đó bày 5 cái bánh nặn bằng gio bếp mà gia đình chú rể chuẩn bị...
Ngay sau các nghi lễ truyền thống, mọi người trong họ và khách mời cùng thưởng thức sản vật núi rừng, mừng hạnh phúc cô dâu chú rể, mừng gia tộc thêm một gia đình mới.
Đời sống văn hóa của người dân tộc Nùng Phàn Slình có ý nghĩa lớn trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết cộng đồng.
Dân tộc Nùng ở Lạng Sơn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu các dân tộc của tỉnh. Bản thân dân tộc Nùng được chia thành nhiều nhóm địa phương với tên gọi thường gắn liền với địa danh nơi di cư hoặc trang phục: Nùng Cháo, Nùng An, Nùng Phàn Slình, Nùng Cúm cọt, Nùng Inh, Nùng Hua lài… |
Theo thoidai