Ngày đó, mỗi lần trời mưa, tôi thường đu lên cửa sổ, tay nắm chặt mấy thanh gỗ chắn, nhìn ra trời hát: “Trời mưa bong bóng phập phồng, má đi lấy chồng con ở với ai”. Rồi tôi tự đáp: "Con ở với ông ngoại".
Ông ngoại tôi cao, da rám nắng, cơ bắp chắc khỏe. Ông là một nông dân ít nói, hay cười. Mỗi sáng ông thường dậy sớm, nhóm bếp củi đun ấm nước, pha bình trà nóng. Sau khi nhâm nhi xong vài tách trà, ông vác cuốc ra vườn, bắt đầu công việc. Ông tôi chỉ mặc mỗi cái quần đùi lò xo (quần đùi vải ngày xưa, mặc lâu nó ngả màu cháo lòng và vải cuốn xoăn lại). Ông có thói quen không mang dép, không đội nón khi làm vườn.
Khu vườn sau nhà, ông đào cái ao nhỏ, dẫn nước từ mương vào nuôi cá. Cạnh ao là những luống khoai lang xanh tốt. Dọc theo con mương bên hông nhà ông trồng nhiều cây mít, tán dài rợp bóng làm nước con mương luôn mát lạnh. Từ nhỏ ngày nào tôi cũng tắm ở con mương này.
|
Ảnh mang tính minh họa |
Mỗi khi có đám tiệc hay có việc đi đâu quan trọng, ông thường mặc áo sơ mi, quần tây trông rất lịch lãm, phong độ. Có lần ông đi lên Đơn Dương (Lâm Đồng) thăm nhà cháu gái, được cháu mua tặng đôi dép da rất đẹp. Ông tiếc, không dám mang qua những đoạn đường có đá, có nước, nên cặp đôi dép vào nách đi chân đất về nhà. Cả nhà nhìn mà thương ông vô cùng.
Ông thích ăn nhất món mắm nêm cá cơm. Ông gắp từng con bỏ vào chén cơm nóng ăn một cách ngon lành, nhìn ông ăn ai cũng phát thèm. Mỗi lần về thăm ông, má tôi không quên muối vài hũ mắm mang về. Ngày tết, ông ưa nhất món canh khổ qua nhồi thịt, mà phải hầm thật mềm mới được.
Tôi nhớ, có đợt cả tuần mà không thấy nhà nấu cơm. Ông lấy bắp, rang lên bỏ vào cối với vài cục đường tán. Giã xong, ông múc ra chén đưa cho tôi. Tôi vừa ăn vừa thổi, bột bắp bay khắp mặt, làm tôi ho sặc sụa. Ông vừa vỗ lưng cho tôi vừa chửi “cha mày!” rồi ông cười. Nụ cười ấy chứa đầy những yêu thương, ấm áp, khiến tôi không bao giờ quên.
Chưa bao giờ ông la mắng tôi một câu, mặc dù tôi nghịch hơn con trai. Trời mưa, nước đọng lại xung quanh miệng giếng sau nhà. Tôi ra bò trườn trên vũng sìn lầy đó, mặt mày, tay chân lấm lem bùn đất. Ông ngoại ngồi bên bếp củi với nồi cơm đang sôi. Ông giục: “Vào nhà đi. Má con về đánh bây giờ”. “Dạ không ông ơi. Con thích tắm mưa”, tôi la lên và tiếp tục công cuộc tắm bùn.
Một hôm, ông đang cuốc đất dẫn nước vào gốc bưởi, tôi chơi cạnh đó và rơi tõm xuống mương, chỗ nước sâu quá đầu. Tôi ngoi lên hụp xuống miệng kêu: “Ông ngoại ơi! Cứu con!”.
Nghe tiếng tôi, ông vội quăng cây cuốc, băng qua bụi gai khô, nhảy xuống mương chụp cánh tay nhỏ chới với, vớt tôi lên bờ. Tôi được ông bế vào nhà sơ cứu, đến gần chiều mới tỉnh lại. Sau trận “thập tử nhất sinh” ấy, mấy anh chị con của dì tôi mới có câu ghẹo: “Hiền lé té đường mương, 3 giờ chiều tỉnh dậy”.
Theo giấy căn cước, ông tôi sinh năm 1913 nguyên quán tỉnh Bình Trị Thiên. Năm 1926, ông cùng mẹ và em gái được người anh khác cha của ông đưa vào tỉnh Thuận Hải. Mọi chuyện ông đều nghe theo sự sắp đặt của người anh. Khi ông lớn, cũng chính anh trai chọn bà ngoại làm vợ ông, bởi ông hiền quá, không dám mở lời tán tỉnh ai. Bà ngoại giỏi giang, quán xuyến mọi việc trong gia đình. Bà sinh con cho ông, cả thảy gần 10 người.
Dưới tán cây trước sân mỗi buổi trưa hè, trên chiếc giường tre ông nằm nghỉ ngơi. Tôi hay lại gần ông huyên thuyên hỏi đủ thứ chuyện “trên trời dưới đất”: “Quê ông ngoại ở đâu?”, “Ông có muốn về quê của ông không?”…
Ngày ông mất, tôi đang học ở TPHCM. Hay tin tôi vội về Ninh Thuận, nhưng không còn cơ hội gặp mặt ông. Cũng chính khi đó, bà con ở quê ông mới lần ra địa chỉ tìm đến, và đã muộn.
Ông ngoại tôi hiền lành, các cụ ở quê bảo là “u” - tức không lanh lợi, không rành đường đi nước bước như người ta. Ngày trước, cha của ông ngoại thương nhớ vợ con, nhưng bà con họ hàng ngày ấy không dám cho ông cố vào Nam, vì sợ ông tìm không ra con cháu, cũng chẳng biết đường về. Ông ngoại tôi đã rất muốn trở về thăm quê, nhưng cảnh gà trống nuôi con bữa đói bữa no buộc ông đành gác ước mong ấy lại.
Càng nghĩ đến chuyện ấy, tôi càng thương ông hơn.
Theo phụ nữ TPHCM